Thuốc bảo vệ niêm mạc dạ dày không chịu sự xâm nhập của các nhân tố công kích có tác dụng làm tổn thương niêm mạc dạ dày, tá tràng, tức là chất bảo vệ niêm mạc dạ dày, gồm:

a – Chất chế từ bitmut: Cơ chế tác dụng của loại thuốc này là trong môi trường axit có thể hợp mạng với protein hình thành một lớp màng bảo vệ che lên bề mặt vết loét. Từ đó có thể đề phòng được sự kích thích của men albumin dạ dày, vị toan và thức ăn v.v… Nó còn có thể hình thành vật ghép với albumin dạ dày, làm giảm hoạt tính tiêu hóa của nó, hình thành vật ghép với các nhân tố sinh ra mặt da, tụ tập ở chỗ bị bệnh, bảo vệ các nhân tố sinh ra mặt da không giảm vi men albumin, mà giúp cho vết loét lành mặt. Nó thúc đẩy chất tiền liệt tuyến và muối bricacbonat bài tiết. Từ đó tăng cường tác dụng bảo vệ của màng che niêm mạc. Nó có tác dụng tiêu diệt khuẩn xoắn môn vị, ức chế men albumin, men niệu kích và men lecithin mà khuẩn xoắn môn vị sinh ra. Từ đó đề phòng giảm tầng niêm dịch, bảo vệ hoàn chỉnh. Chất chế từ bitmut không được dùng lâu dài.

Dùng nhiều, lâu dài chất có bitmut sẽ bị bệnh não. Bị bệnh não liên quan trực tiếp đến nồng độ bitmut trong huyết thanh. Nồng độ bitmut nhỏ hơn 50mg/lit được xem là an toàn. Phạm vi nguy hiểm là 50-100mg/lit. Bệnh não do bitmut gây ra biểu hiện chủ yếu là hai tay bị tê, hay mỏi mệt, dễ xúc động, không tập trung chú ý, trí nhớ giảm sút v.v… sau khi dùng thuốc, triệu chứng có thể mất đi dần. Trên lâm sàng chúng ta thường thấy có người bệnh sử dụng chất bitmut không hạn chế, đó là điều nguy hiểm, đề nghị liệu trình dùng thuốc có bitmut từ 4 đến 6 tuần là vừa.

b Chất chế từ albumin: Glutathinone albumin là một loại muối hydroxyt nhôm của ditetrasulfat đường saccaro. Trong môi trường axit có một số phân tử gốc hydroxyt nhôm có thể ion hóa mà tách ion ghép với sulfat đường saccaro. Cái sau có thể tụ thành thể keo mang điện âm, không tan, có thể kết hợp với vật thấm protein mang điện dương trên mặt loét, hình thành một màng bảo vệ che vết loét, thúc đẩy loét chóng lành. Glutathione albumin còn có tác dụng hấp thụ axit mật và men albumin dạ dày, thúc đẩy hình thành chất tiền liệt tuyến sinh ra ở bên trong, và có thể hấp thụ các nhân tố sinh ra mặt da, làm cho nó cô đặc trên mặt loét. Trên lâm sàng mỗi ngày dùng 4 lần, mỗi lần lg, uống thuốc trước khi ăn 1 tiếng và trước khi ngủ. Tỷ lệ lành bệnh 4 tuần là 36%- 61%, 8 tuần là 75%- 94%. Trị lành tá tràng 4 tuần là 41%- 68%, 8 tuần là 79%- 91%. So với điều trị chất chống thiếu H2 của cơ thể hiệu quả không khác mấy. Ghitathione alumin còn khắc phục được ảnh hưởng bất lợi làm lành loét tá tràng do hút thuốc.

c- Chất tiền liệt tuyến. Chất tiền liệt tuyến có tác dụng bảo vệ tế bào rất mạnh. Nó có thể ức chế đường tiêu hóa bài tiết nhóm amin, chất pentapeptit tiết ra ở dạ dày và vị toan bài tiết, có tác dụng chống co thắt mạch máu của chất chống đông máu A2, làm tăng mạch máu lưu thông ở niêm mạc. Chất tiền liệt tuyến còn có thể làm tăng muối bicacbonat của dạ dày bài tiết, để tăng môi trường ít kiềm tính, làm tăng độ dày lớp niêm mạc keo.

Bài trướcThuốc ức chế axit khác gì với thuốc cầm axit kiềm tính?
Bài tiếp theoThuốc ức chế bơm Proton trong điều trị bệnh dạ dày tá tràng

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.