KINH NGUYỆT ĐẾN KHÔNG ĐÚNG KỲ
(Kinh Nguyệt Bất Điều – Iregular Menstruation)
Kinh nguyệt đến không đúng chu kỳ, có thể là trước hoặc sau không nhất định, gọi là ‘Rối Loạn Kinh Nguyệt Không Định Kỳ’ hoặc ‘Kinh Hành Tiên Hậu Vô Định’, ‘Nguyệt Kinh Tiên Hậu Vô Định Kỳ’ hoặc ‘Nguyệt Kinh Khiên Kỳ’.
Nguyên Nhân Kinh nguyệt không đúng kỳ
Theo Đông Y có thể do: Tỳ hư, Khí uất, Huyết ứ.
Tỳ Hư: Nhiệm vụ chính của Tỳ là thống huyết. Tỳ khí hư yếu thì chức năng chuyển vận sẽ bị rối loạn làm ảnh hưởng đến kỳ kinh. Nếu chức năng vận hóa suy kém thì việc ăn uống cũng sẽ giảm, thường làm cho lượng kinh ra ít, kinh nguyệt đến sau kỳ. Ngược lại, nếu chức năng vận hóa tốt, ăn uống khỏe, lượng huyết sẽ nhiều và kinh nguyệt sẽ đến sớm. Diệp Thiên Sỹ trong sách ‘Nữ Khoa’ đã nhận định: “Kinh nguyệt đến lúc sớm lúc trễ là do Tỳ khí của thổ không sinh nên không muốn ăn uống, vì vậy mà huyết suy kém, kinh đến muộn hoặc tháng sau ăn uống ngon hơn thì kinh nguyệt lại đến sớm.
Khí Uất: Khí là tướng của huyết, khí hành thì huyết cũng hành, khí trệ thì huyết ngừng, vì vậy, khí thông hay không đều ảnh hưởng đến kinh nguyệt đến sớm hoặc trễ.
Huyết Ứ: Huyết ngưng trệ có thể làm cho kinh nguyệt đến trễ hoặc là huyết ứ không lưu thông được khiến cho huyết mới sinh không về được kinh mạch cũng có thể làm cho kinh đến sớm.
Cơ Chế Gây Bệnh
Cơ chế của chứng kinh nguyệt rối loạn có liên hệ với Can và Thận, trong đó Can khí không đều làm cho khí nghịch lên là chính. Can khí, Can huyết thái quá hoặc bất cập làm cho huyết hải khi đầy khi vơi bất thường khiến cho kinh kỳ bị rối loạn.
Triệu Chứng
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
Chứng Tỳ Hư: Sắc mặt xanh vàng, da thịt phù, tinh thần uể oải, tay chân lạnh, hồi hộp, chóng mặt, hơi thở ngắn, thiếu sức, miệng nhạt, ăn ít, tiêu lỏng, rêu lưỡi mỏng, nhạt hoặc trắng nhớt, mạch Hư, Trì.
Điều trị: Bổ Tỳ ích khí, dưỡng huyết, điều kinh. Dùng bài Quy Tỳ Thang (Tế Sinh Phương).
Hoặc bài Ôn Vị Ẩm (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học).
Ăn ít, bụng đầy thêm Mạch nha, Sa nhân, Trần bì. Kinh nguyệt ra nhiều, bỏ Sinh khương, Đương quy, thêm Ô tặc cốt, Tông lư (tro).
Chứng Can Khí Uất: Kinh nguyệt lúc sớm lúc trễ, trồi sụt không đều, kinh nguyệt không thông, trước hoặc đầu lúc hành kinh thì bụng dưới đau, ngực sườn đầy tức, tinh thần bực dọc, hay cáu gắt, sắc mặt không tươi sáng, lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch Huyền, Tế.
Điều trị: Sơ Can, giải uất, lý khí, điều kinh Dùng bài Tiêu Dao Tán (Hòa Tễ Cục Phương): Sài hồ, Đương quy, Bạch thược, Bạch truật, Phcuj linh, Cam thảo, Bạc hà, Bào khương
Hoặc Tử Kim Hoàn (Diệp Thiên Sỹ Nữ Khoa) hoặc Sâm Linh Bạch Truật Tán (Hòa Tễ Cục Phương).
Khi hành kinh mà bụng đau thêm Hương phụ, Diên hồ sách; Trong kinh có cục thêm Trạch lan, Ích mẫu. Nếu có sốt thêm Đơn bì, Chi tử; Thức ăn không xuống thêm Chỉ xác, Hậu phác, Trần bì; Kèm Thận hư thêm Thỏ ty tử, Thục địa, Tục đoạn.
Chứng Huyết Ứ: Trước khi hành kinh và lúc bắt đầu có kinh bụng dưới căng, đau, có khối u, đè vào thấy đau hơn, kinh đến lúc sớm lúc trễ.
Điều Trị: Dùng bài Đào Nhân thang (Thiên Kim Phương).
Chứng Thận Hư: Kinh đến sớm hoặc trễ, lượng ít, màu nhạt, trong, dẻo, sắc mặt sạm đen, váng đầu, ù tai, lưng đau, bụng dưới xệ xuống, lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch trầm, Nhược.
Điều Trị: Bổ Thận, ích khí, dưỡng huyết, điều kinh. Dùng bài Cố Âm Tiễn (Cảnh Nhạc Toàn Thư) thêm Nhục quế, Phụ tử, Bổ cốt chỉ (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học).
[Nhân sâm ôn nguyên khí; Thục địa, Sơn thù tư Thận, ích âm; Thỏ ty tử, Bổ cốt chỉ bổ Thận dương, ích tinh khí; Ngũ vị tử tư Thận, liễm âm, chỉ tả; Sơn dược cố Thận, bồi Tỳ, chỉ tả; Nhục quế, Phụ tử bổ Mệnh môn hỏa; Viễn chí giao thông Tâm Thận làm cho thủy hỏa tương tế, thủy đầy đủ, hỏa mạnh lên, âm bình, dương bí thì kinh nguyệt tự điều hòa).
Nếu Can uất Thận hư, biểu hiện kinh nguyệt không đều, lượng kinh ra nhiều hoặc ít, khi hành kinh thì đau lưng, mỏi gối. Trước khi hành kinh thì vú sưng đau, tâm phiền, dễ tức giận, lưỡi đỏ tối, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền Tế.
Điều trị: Bổ Thận thư Can. Dùng bài Định Kinh Thang (Phó Thanh Chủ Nứ Khoa): Đương quy, Bạch thược, Thục địa, Sài hồ, Sơn dược, Phục linh, Thỏ ty tử, Kinh giới (sao).
(Sài hồ, Kinh giới sơ Can giải uất; Đương quy, Bạch thược dưỡng huyết, nhu Can; Thục địa, Thỏ ty tử bổ Thận, ích tinh huyết; Sơn dược, Phục linh kiện Tỳ sinh huyết).
Châm Cứu
Can Uất: Châm Can du, Kỳ môn, Thái xung, Trung cực, Tam âm giao.
(Can du hợp với Kỳ môn là cách phối hợp huyệt Bối du và Mộ, để sơ Can, giải uất; Thái xung là huyệt Nguyên của kinh Can có tác dụng sơ điều lý khí; Trung cực là yếu huyệt của mạch Nhâm, dùng để ích mạch Nhâm, Xung; Tam âm giao là huyệt hội của ba kinh âm ở chân. Can uất được giải, mạch Nhâm, Xung được điều hòa thì kinh nguyệt sẽ đến (Tân Biên Châm Cứu Trị Liệu Học).
Thận Hư: Bổ Thận bồi thổ, dưỡng huyết điều kinh. Châm Quan nguyên, Trung cực, Khí hải, Thận du, Tam âm giao, Thủy tuyền.
(Trung cực, Quan nguyên thuộc mạch Nhâm có tác dụng ích cho mạch Xung và Nhâm, điều kinh huyết; Thận du bổ ích cho tinh tiên thiên; Thủy tuyền là huyệt Khích của kinh Thận là nơi hội của khí huyệt với mạch Xung Nhâm và kinh Thận; Tam âm giao giúp thông tam âm).
Y Án Kinh Nguyệt Không Đều
(Trích trong ‘Nữ Khoa Y Án Tuyển Túy’)
“Phùng, nữ, 21 tuổi. Mạch hai bộ quan Tế mà Sác. Can âm và Tỳ âm đều có thấp nhiệt nung nấu, vì vậy mà huyết bị khô, huyết hư. Kinh nguyệt đến lúc sớm lúc trễ. Khí hư ra nhiều, mặt vàng, môi khô. Nếu không điều trị sớm sẽ thành chứng cốt chưng. Trước hết, nên dùng bài ‘Tiêu Dao Tán gia vị’ gồm: Sinh địa, Đương quy (thân), Bạch thược, Sơn chi (sao đen), Đơn bì (sao), Mẫu lệ (sống), Bạch truật, Chích thảo, Ngân sài hồ, Thạch hộc (tươi). Sắc uống.
Khám lần 2: Kinh nguyệt đến sớm hơn nhưng xuống không được thông lợi, mạch ở hai bộ quan Hư, Hoạt, do Can và Tỳ bị hư yếu, vì vậy, thử dùng phép điều kinh để làm cho sơ khí, hòa huyết, có vẻ thích hợp nhất. Cho dùng: Đương quy thân, Xuyên khung, Trạch lan diệp, Diên hồ sách, Sơn tra nhục (than), Sơn chi (sao), Đơn bì (sao), Thông thảo, Uất kim, Ngải diệp.
Khám lần thứ ba: mạch hai bộ quan Tế, Sắc, kinh xuống không thông, môi khô, da phồng lên là phần vinh không được đầy đủ, Tỳ có hư nhiệt. Dùng phép dưỡng vinh, thanh Tỳ. Dùng Đan sâm (sao), Toàn Đương quy, Trạch lan diệp, Thạch hộc, Phục linh, Sơn dược (sao), Thông thảo, Bá tử nhân, Chích thảo, Hợp hoan bì.
Khám lần 4: Mạch chạy thông hơn trước, kinh đã thông, môi miệng tươi nhu7ânj hơn. Dùng phép dưỡng vinh, tư âm: Sinh địa (sao rượu), Đương quy (thân), Bạch thược (sao), Sơn dược, Phục linh, Thạch hộc, Bá tử nhân, Chích thảo, Hợp hoan bì.
Khám lần 5: Mạch chạy tương đối điều hòa, huyết trắng cũng giảm dần, sắc mặt và môi đều tươi nhuận hơn. Dùng bài trên, thêm Ngọc trúc, Bạch vi, Tỳ giải.
Khám lần 6: Phần âm tuy có hòa nhưng huyết táo, ít tươi nhuận, nên dùng phép tư bổ. Sinh địa, Quy thân, A giao, Bạch thược, Quy bản (chích), Thạch hộc, Sơn dược, Ngọc trúc, Bá tử nhân, Tỳ giải, Bạch vi, Phục thần. Dùng Hợp hoan bì sắc lấy nước uống thay nước trà.
Khám lần 7: Phần âm hòa hoãn dần, huyết trắng chưa sạch dứt. Cho uống thuốc tư bổ dưới dạng thuốc hoàn, Sinh địa, Thục địa, Quy thân, bạch thược, A giao, Quy bản (chích), Mẫu lệ, Thạch hộc, Bạch vi, Tỳ giải, Phục thần, Mạch môn, Hợp hoan bì, sắc uống.
Thuốc hoàn: Sinh địa, Sa nhân, Thục đia (sao), Thạch hộc đều 120g, Thiên môn, Bạch thược, Bạch vi, Tỳ giải, Cáp phấn (sao với A giao), Hương phụ tứ chế, đều 60g; Đương quy, Phục thần, Sơn dược, Sa uyển tử, Mẫu lệ nung, đều 90g, Đảng sâm 120g, Chích thảo 15g, tán bột. Trước hết lấy Kim châm thái 480g, Hợp hoan bì 240g, sắc lấy nước cốt, trộn mật ong làm viên to bằng hạt Ngô đồng lớn, uống mỗi làn 12g lúc đói với nước muối pha nhạt”.