Trung y trị chứng ” Phong” : Trị phong tiên trị huyết, huyết hành phong tự diệt, thì ra phong không phải là phong, huyết không phải là huyết.
“Trị phong tiên trị huyết, huyết hành phong tự diệt”
Câu này nguyên văn thấy đầu tiên trong cuốn < Y tông tất độc> của Lý Sĩ Tài đời Minh: ” Trị hành tý, tán phong là chính, ngự hàn lợi thấp vẫn không thể bỏ, đại để lấy thuốc bổ huyết, trị phong tiên trị huyết, huyết hành phong tự diệt”. Ý là hành tý lấy tán phong là chính, tàn hàn trừ thấp là phụ, thông thường còn phải gia thêm một số thuốc bổ huyết, đây chính là bởi vì trị phong đầu tiên phải trị huyết, huyết có thể thông sướng chứng hành tý sẽ tự hết.
Nói thẳng như vậy, còn chưa rõ là gì ? ” Trị phong tiên trị huyết, huyết hành phong tự diệt”.
?Phong là Phong kiểu gì ?
Phong mới đầu chỉ chứng hành tý của chứng tý ( tức chỉ chứng Tý có Phong tà thiên thịnh ), huyết là chỉ Huyết hư, nhưng hậu thế trên cơ sở này đã ứng dụng phạm vi rộng ra. Có người nói phong này là nội phong, có người nói phong này là ngoại phong, cũng có người nói phong này chính là Nội phong lại cũng là ngoại phong, thậm chí có người nói phong không phải là phong, có người nói huyết này là huyết hư, cũng có người nói huyết này là huyết ứ, còn có người nói huyết này là huyết nhiệt, thậm chí có người nói huyết này là huyết nghịch.
?Nếu nói Phong này là Nội phong – Đại Tần cửu thang cho thấy không thuyết phục.
<< Y học phát minh>> của Lý Đông Viên dùng Đại tần cửu thang trị ngoại phong nhập trúng kinh lạc vậy không phải chính là ngoại phong sao ? ” Ngoại phong nên tán” , ở đây không phải nên tán ngoại phong sao ? nhưng là cái gì mà lại nói Đại tần cửu thang phối ngẫu có hàm ý ” Trị phong tiên trị huyết, huyết hành phong tư diệt” vậy ? Đại tần cửu thang dường như tự đánh vào mình. Lẽ nào là Đại tần cửu thang trị bên trong có âm huyết khuy hư, dưỡng huyết là phòng ý ngoại phong động nội phong ? trước chấp nhận chỗ thụ tà, vậy giải thích giống như nói rõ rồi, lại hoặc là dụng ý dùng Đại tần cửu thang là công 2 mặt, đã phải tán ngoại phong, cùng cần phải tức phong. Nội ngoại kiêm cố, nói như vậy có vẻ cũng có lý. < Y phương tập giải> cũng viết :” Phong dược phần táo nhiều, thuốc ở biểu đa phần tán, cho nên trước tiên phải dưỡng huyết” nghĩ cái này mới chính xác. Đại tần cứu thang chính là vì tán ngoại phong đến, mà phong dược quá táo, nên sơ phong đương nhiên phải phối thuốc dưỡng huyết, để phòng tân táo thương âm huyết. bởi vậy, Đại tần cửu thang điều trị ngoại phong, ở đây có phối ngẫu thuốc dưỡng huyết, đạt đến tác dụng chế ước tân táo của phong dược. Đương nhiên, Trước thời đại Lý Đông Viên, sau thời đại Lý Sĩ Tài, đây là giống như Hậu nhân phỏng đoán cưỡng ép tình cảm thi thơ cổ nhân, Đại tần cửu thang có thể được dán lên 1 nhãn ” Trị phong tiên trị huyết”.
?Nếu như nói Phong này Ngoại phong – Thiên ma câu đằng ẩm cho thấy không thuyết phục.
Thiên Ma câu đằng ẩm được thấy trong << Trung y nội khoa tạp bệnh chứng trị tân nghĩa>> , chủ trị chứng Can dương thiên kháng, Can phong thượng nhiễu.Công dụng của nó là Bình can tức phong, thanh nhiệt hoạt huyết, bổ ích can thận. Thiên ma câu đằng ẩm ngụ ý ” Trị phong tiên trị huyết, huyết hành phong tự diệt”, Đúng Nó trực tiếp chỉ nội phong, không hề nghĩ đến ngoại phong.
?Nếu như nói Phong này vừa là Nội phong lại là Ngoại phong – Trương Cảnh Nhạc cho là không thuyết phục
<< Cảnh nhạc toàn thư – Phi phong>> đề xuất : ” 非风一证,实时人所谓中风证也,此证多见卒倒,卒倒多由昏愦,本皆内伤积损颓败而然,原非外感风寒所致。而古今相传,咸以中风名之,其误甚矣。”此即“中风非风”论. ý câu này :” Chứng phi phong, Thực ra là chứng trúng phong vậy, chứng này đa số thấy đột quỵ, ngã đa phần do hôn mê, gốc là do Nội phong tích tổn nội động mà lên, nguyên gốc không phải ngoại cảm phong hàn dẫn đến. mà cổ kim tương truyền, tất cả lấy danh trúng phong của nó, sai quá nhiều”, đương nhiên ở câu này chỉ mang “Phong” giải thích là trúng phong, lược rõ hạn chế, huống hồ Hậu thế đem trúng Phong phân thành ” Chân trúng” và ” Loại trúng”. Phần nhiều từ Thận âm bất túc, tâm hỏa tích thịnh, Can dương thiên kháng, Can phong nội động, hoặc khí hư, khí nghịch, hoặc huyết hư tâm mạch tý trở, hoặc thấp đàm uẩn thịnh, hóa nhiệt sinh phong dẫn đến, mà không phải ngoại phong dẫn đến, nhưng cũng có thể từ ngoại phong dẫn động mà phát bệnh.
?Nếu như nói Phong này không phải là phong – Bạn phục hay không phục
Quan điểm này cho rằng, Thực chất của chứng “Phong” này chính là ” Huyết” chứng, ví dụ : Trấn Can tức phong thang dùng trị loại trúng phong Can thận âm hư, Can dương thượng kháng, khí huyết thượng nghịch, trong đó, dụng ý dùng Ngưu Tất, dẫn huyết hạ hành. quan điểm loại phi Phong này mang “Phong” coi là ” Huyết”, cũng là có lý. Trên thực tế, phù hợp với nhận thức của Y học hiện đại về bệnh mạch máu não cấp tính.
?Tại sao lại có pháp ” Trị huyết” ? ” Sao “Huyết hành” ” Phong lại tự diệt”
Huyết chứng vốn có hư, có ứ, có nhiệt, có hàn, có táo, có xuất huyết, có thượng nghịch, nên tùy chứng trị nó, có bổ huyết, hoạt huyết, lương huyết, ôn kinh, nhuận táo, dẫn huyết hạ hành. Mục đích của trị huyết là vì ” Huyết hành”, cho nên chỉ cần pháp khiến cho huyết mạch vận hành như bình thường tức là pháp tốt điều trị huyết, cái này so 1 chút với hiện tượng tự nhiên, khi cuồng phong thổi xuống sẽ là 1 trận mưa to , phong có nhỏ hay không ? Linh cảm của Trung y trị bệnh chính là bắt nguồn ở tự nhiên. Do vậy lượng huyết sung túc, thông sướng mạch mạch máu, thúc đẩy có lực, thì huyết có thể vận hành bình thường, phong tự nhiên sẽ diệt.
?Lời cuối : Khái niệm của ” Phong” phân nghĩa rộng và nghĩa hẹp, khái niệm của ” Huyết” cũng có nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nhưng mà, cho đến ngày nay trong y án nói đến” Trị phong tiên trị huyết, huyết hành phong tự diệt” phần nhiều không còn nguyên ý, nguyên ý chỉ dùng chỉ đạo điều trị chứng hành tý. Đương nhiên, trước Lý Trung Tân đã có luận thuật tương quan của mối liên quan giữa ” Phong” và ” Huyết”. mà trong thực tiễn lâm sàng của hậu thế, Y gia các đời đã chứng minh quan niệm ” Trị phong tiên trị huyết” không cục bộ chỉ áp dụng trong điều trị chứng Hành Tý, có thể áp dụng rộng ra nhiều bệnh khác. Ví dụ : Châm cứu Cách Du, Huyết Hải điều trị Mề Đay, Tiêu phong tán dùng Sinh địa hoàng dưỡng huyết, đều có ngụ ý ” Trị phong tiên trị huyết, huyết hành phong tự diệt”.
Bản dịch : Ths, Bs Tôn Mạnh Cường