MẠCH TRÌ, MẠCH HOÃN
脈緩, 脈遲
Phiên Âm
Trì mạch thực âm. Nhất tức tam chí. Tiêu khoái vu tri. Hoãn tài cặp tứ
Nhị tốn nhãt bai. Bệnh bất khả trị. Luỡng tức doat tinh. Mạch dĩ vó khí Tri tể vi sáp
Vãng lai cực nan. Tự chí phi chỉ. Đoản tán lưỡng kiêm. Kết tắc lai hoán. Chỉ nhi phục lai
Đai tắc lai hoãn. Chí bất nãng hồi.
Dịch nghĩa
Mach trì thuộc âm. Mỗi hơi ba nhịp. Nhanh hơn mạch trì. Hoãn bốn nhịp đi.
Hai lần mạch tổn. Một lấn bai ghi. Không chữa được gì. Hai hơi một nhịp. Tinh đoạt mach suy. Trì tẽ là sáp. Rất khó vàng lai. Nhu ngừng mà chắng. Đọản tán cả hai. Từ từ là kết
Ngùng rồi lai ngay. Còn mạch đại này.
Dịch theo lời giái
Đoạn này nói về từ thế trạng mạch tri phán tích thêm với sự khác biệt cùa bốn mạch : hoãn, sáp, kết, đại, cùng với mạch tốn, mạch bại, mạch đoạt tinh.
Mạch trì là mạch tượng dương hư âm thịnh, mỗi lần thơ ra hít vào (nhịp thở) chỉ có ba nhịp đập. Điều cần phân biệt, với mạch tri trước hết là mạch hoãn, nhịp đập cùa mạch hoãn hơi nhanh hơn mạch trì, mỗi nhịp thờ vừa đúng bốn nhịp đập, nhịp đập cũng đều đều hòa hoãn. Nếu một nhịp thở mạch chi đập có hai lần, đó gọi là mạch tốn. Một nhịp thở mạch chỉ đập có một lần, đó gọi là mạch bại, hơn nửa trong hai nhịp thở mạch chí đập có một lần, đó gọi là mạch đoạt tinh, cứ xuất hiện ba loại mạch tượng trên đây, đều chứng tỏ rằng tĩnh khí đã suy kiệt, tinh thế bệnh đã phát triền đến giai đoạn cực kỳ nghiêm trọng.
Còn về mạch trì tế, nhịp; it khó khăn, thậm chi có chỗ rất giống như mạch đoan tan Vi mạch giai đoạn đứt quang, song không phải là mạch gián đoạn hãn mà chi là trong giây phút rất ngắn mạch hơi trì trệ một tí rồi lại đập. Đó gọi là mạch sáp (mạch chạy rít khó). Có hai loại mạch gián đoan cân phải phân biệt. Một loại là mạch đập trì hoãn, thinh thoáng có một lần gián đoạn, khoảng cách gián đoạn không có quy tắc nào cả. Sau gián đoạn lại đập ngay, đó gọi là mạch Kết. Một loại khác mạch cũng là mạch đập tri hoãn, nhưng gián đoạn đều đặn, đồng thời qua giây phút gián đoạn hơi dài mới bắt đầu độ lại. Đó gọi là mạch Đại điêu gọi là “chi bất năng hôi” (ngừng kháng đập lai nữa), có nghĩa là nôi thời gian gián đoạn của mạch hơi dài. Khi đập lại cũng chỉ đập như thường, không có công năng đạp dồn nhanh đê tự bù dắp lại. Chứ không phải nói là sau khi mạch gián đoạn vinh viễn không đáp lai nữa. Xin xem lời giãi thích vé mạch Đại.
MẠCH TRÌ, MẠCH HOÃN