PHÁT (Phlegmon)
Phát là loại nhọt lớn, gọi là Viêm tấy lan tỏa (Phlegmon Diffus) là tình trạng viêm cấp tính của mô tế bào. Có 2 đặc điểm chính:
Xu hướng lan tỏa mạnh, không giới hạn.
Hoại tử các mô bị xâm nhập.
Nguyên Nhân
Chủ yếu gây viêm tấy thường là loại liên cầu khuẩn (chủ yếu) và tụ cầu khuẩn vàng. Cũng có thể gặp các loại cầu khuẩn khác và vi khuẩn ky khí.
Đường nhiễm khuẩn có thể là do xây xát da, vết thương nhỏ ở da, vết thương chiến tranh có nhiều mô bị dập nát.
Bệnh thường phát triển dễ dàng ở những bệnh nhân nghiện rượu, bệnh tiểu đường, suy gan, suy thận, suy tim, cơ thể suy sụp do chấn thương tinh thần.
Chứng Phát cũng như các chứng Đinh sang, Ung, Hữu đầu thư… đều thuộc phạm trù chứng Sang dương và tùy theo vị trí phát bệnh mà có tên khác nhau như Thủ phát bối (mọc ở lưng bàn tay), Túc phát bối (mọc ở mu bàn chân), Phì đoan phát (mọc ở bắp chân), v.v…
Theo Đông Y, nguyên nhân chủ yếu là do phong hỏa thấp độc kết tụ ở tay hoặc hạ chú xuống chân khiến cho kinh lạc bị tắc trở, khí huyết ngưng trệ, thấp nhiệt độc tà tích tụ mà phát ra ngoài da. Hoặc do cân mạch bị chấn thương, huyết ứ nhiễm thêm độc tà sinh bệnh.
Viêm tấy trong 2 ngày đầu không có mủ chỉ có phù nề (tiết ra chất dịch đục chứa bạch cầu và vi khuẩn). Những ngày sau hiện lên nhiều ổ mủ rải rác nhưng không tích tụ thành bọng chứa. Viêm mủ bóc tách các khoang tế bào, lan tỏa dọc theo các mạch máu, làm hoại tử nhiều mô, ngấm đầy một loại mủ vàng xanh. Sau khi rạch tháo mủ, các mô hạt được tái tạo và thời gian lành sẹo kéo dài, do mất nhiều mô nên lành sẹo méo mó.
Triệu Chứng
Triệu chứng chủ yếu: chỗ viêm tấy sưng và lan rộng, phù nề, đau nhức, da bóng đỏ, vùng trung tâm với những đốm tái bầm, xung quanh đỏ nhạt hơn và ranh giới không rõ ràng.
Từ 3-5 ngày sau vỡ mủ hoặc mềm ở trung tâm nhưng chưa vỡ.
Triệu chứng toàn thân thường có là rét run, sốt cao (40- 41oC, mệt nhiều, buồn nôn, mất ngủ.
Những khả năng tiến triển của bệnh:
Tối cấp diễn: tình trạng nhiễm khuẩn máu (Tẩu hoàng), nhiễm độc nặng (do không được điều trị kịp thời) dẫn đến tử vong trong vòng 24-48 giờ.
Phát triển đến giai đoạn hoại tử (khả năng thường gặp nhất sau giai đoạn cấp tính). Tình trạng toàn thân ổn định dần do các mô hoại tử rụng đi một cách tự nhiên hoặc được mổ dẫn lưu.
Những biến chứng khác:
Nhiễm trùng lan ra tổ chức lân cận gây viêm khớp mủ, viêm tắc tĩnh mạch.
Ổ mủ di căn của nhiễm khuẩn huyết gây nên viêm màng phổi mủ, viêm nội tâm mạc v.v…
Viêm tấy lan tỏa khỏi hẳn sau một quá trình dài tái tạo, các mô bị hoại từ lành sẹo xấu.