1. Theo Y học hiện đại

1.1. Mãn kinh và cơ sở sinh lý học của mãn kinh

Ở người phụ nữ vào độ tuổi 50 trở lên các nang noãn của buồng trứng giảm phát triển, không đáp ứng với kích thích của hormon tuyến yên, sau vài tháng đến vài năm các chu kỳ sinh dục ngừng, người phụ nữ hết kinh, không có hiện tượng phóng noãn, nồng độ các hormon sinh dục giảm thấp. Hiện tượng này được gọi là mãn kinh.

Mãn kinh là tình trạng thôi hành kinh vĩnh viễn sau 12 tháng. Mãn kinh là một vô kinh thứ phát do suy giảm tự nhiên hoạt động của buồng trứng một cách tự nhiên và không hồi phục.

Mãn kinh được phân thành 2 loại:

– Mãn kinh tự nhiên: là tình trạng không hành kinh sau 12 tháng mà không có bất kỳ nguyên nhân bệnh lý nào.

– Mãn kinh nhân tạo: là tình trạng dừng kinh nguyệt sau khi cắt bỏ buồng trứng, do điều trị hoá chất, phóng xạ làm suy giảm chức năng buồng trứng.

Hội chứng mãn kinh được chia làm 3 giai đoạn:

Giai đoạn tiền mãn kinh: là giai đoạn khi mà chu kỳ kinh nguyệt vẫn đều ở phụ nữ sau độ tuổi 40, đôi khi mất kinh nhưng không kéo dài quá 3 tháng.

Giai đoạn quanh mãn kinh: là giai đoạn ngay trước khi mãn kinh thật sự, chu kỳ kinh nguyệt bất thường, có giai đoạn vô kinh kéo dài hơn ba tháng nhưng không kéo dài trên 12 tháng, giai đoạn này bao gồm cả năm đầu sau khi mãn kinh.

Giai đoạn hậu mãn kinh: là sau khi vô kinh liên tục 12 tháng, giai đoạn này kéo dài cho đến chết.

Cơ sở của mãn kinh: Mãn kinh là sự kiệt quệ của buồng trứng, vào thời kỳ tiền mãn kinh ở buồng trứng, số nang trứng nguyên phát rất ít. Việc đáp ứng của buồng trứng với kích thích của Follicle Stimulating Hormon (FSH) và Luteinizing Hormon (LH) giảm dẫn đến lượng estrogen giảm dần đến mức thấp nhất. Với hàm lượng này estrogen không đủ tạo ra cơ chế feedback âm gây ức chế bài tiết FSH và LH, đồng thời cũng không đủ để tạo cơ chế feedback dương gây bài tiết đủ lượng FSH và LH cần thiết làm rụng trứng. Do đã chỉ sản xuất được một lượng nhỏ hơn estrogen, không còn đủ để làm thay đổi niêm mạc tử cung tới mức gây được kinh nguyệt.

1.2. Những thay đổi về nội tiết khi mãn kinh

Ở thời kỳ mãn kinh có sự thay đổi lớn về nội tiết mà hiện tượng chính là sự tụt giảm estrogen. Trong thời kỳ sinh sản buồng trứng chế tiết chủ yếu estradiol và một lượng nhỏ estron, còn lại hầu hết estron được hình thành từ một đích từ nguồn androgen do vỏ thượng thận và lớp vỏ của nang noãn chế tiết. Estrogen cũng có thể biến đổi từ dạng này sang dạng khác, như sự chuyển dạng qua lại của estradiol và estron. Trước khi mãn kinh 95% estradiol lưu hành trong máu do buồng trứng tiết ra phần còn lại có nguồn gốc từ sự chuyển hoá estron.

Ở thời kỳ mãn kinh có sự thay đổi về estrogen, nồng độ estradiol và estron giảm rõ trong 12 tháng đầu của thời kỳ này và tiếp tục giảm chậm trong một vài năm sau đó.

Vào những năm cuối của đời sống sinh sản, có sự sụt giảm rất lớn nồng độ estradiol và chính sự tụt giảm này đã gây ra các rối loạn tâm sinh lý và bệnh tật cho người phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh.

1.3. Những thay đổi về chức năng thời kỳ mãn kinh

Chính sự tụt giảm nồng độ estrogen thời kỳ mãn kinh đã dẫn tới những thay đổi về cấu trúc cũng như về chức năng buồng trứng để lại nhiều khó khăn ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của người phụ nữ ở giai đoạn này. Những biểu hiện lâm sàng của tuổi mãn kinh thay đổi rất nhiều về mức độ và thời gian xuất hiện. Một số phụ nữ hoàn toàn không có một triệu chứng gì đáng kể trừ sự thay đổi chức phận kinh nguyệt là do những thay đổi về hình thái và nội tiết chắc chắn tiến triển một cách từ từ vì vậy các hậu quả hầu như không thấy rõ. Ngược lại ở những phụ nữ mà sự thiếu hụt estrogen đột ngột hơn và rõ ràng hơn, phối hợp với những thay đổi ở đường sinh dục, vú và đôi khi các triệu chứng khác cùng một lúc với những biểu hiện của tính không ổn định nghiêm trọng của bản thân. Chính những người này được gọi là có hội chứng mãn kinh.

1.4. Hội chứng mãn kinh.

Danh từ hội chứng mãn kinh được dùng để chỉ một nhóm các triệu chứng mà khoảng 70-90% phụ nữ bị mắc trong tuổi mãn kinh bao gồm: Rối loạn thần kinh thực vật như: cơn bốc hoả, vã mồ hôi, hồi hộp, chóng mặt, các rối loạn tâm lý như: rối loạn tập trung, giảm ham muốn tình dục…

* Rối loạn vận mạnh.

Các rối loạn vận mạch xảy ra ở 75 – 85% phụ nữ mãn kinh. Thường được nhắc tới là cơn bốc hoả, kèm theo vã mồ hôi và rùng mình

* Cơn bốc hoả

Các cơn bốc hoả này xảy ra rất bất ngờ, không có báo trước, hay cảm thấy một cảm giác ấm hay nóng bỏng từ ngực lan dần lên tới cổ, đầu, mặt. Cảm giác này có thể kéo dài một vài giây tới một vài phút và thường kèm theo một cơn đỏ mặt, đôi khi sau cơn bốc hoả lại rùng mình. Thường xuất hiện vã mồ hôi sau cơn bốc hoả. Đôi khi thấy xuất hiện choáng váng, chóng mặt, đánh trống ngực, nhức đầu, buồn nôn ngay sau khi bị bốc hoả và sự kết thúc của triệu chứng trên cũng đột ngột như khi nó xuất hiện. Tất cả giai đoạn này kéo dài khoảng vài phút.

Các cơn bốc hoả nhiều hay ít, mạnh hay nhẹ rất khác nhau, thường hay xảy ra sau các xúc cảm. Các cơn vã mồ hôi đặc biệt hay xảy ra trong lúc ngủ, gây ảnh hưởng tới giấc ngủ làm cho người phụ nữ thấy rất mệt. Trong một vài trường hợp sau các cơn đó bệnh nhân có thể bị hồi hộp hay có những cơn mạch nhanh kịch phát.

Căn nguyên của vấn đề vận mạch đã được nghiên cứu nhiều. Nhiều ý kiến cho rằng sự mất estrogen bản thân nó không phải là nguyên nhân chính. Các rối loạn vận mạch đặc biệt không xuất hiện ở các bệnh nhân bị suy giảm estrogen thứ phát sau thiểu năng chức phận tuyến yên. Người ta cũng nhận thấy không có một sự liên quan nào giữa mức độ bài tiết hormone hướng sinh dục với mức độ trầm trọng của các cơn bốc hỏa mãn kinh.

Ngày nay người ta thấy có một mối tương quan tạm thời giữa nhịp độ bài tiết ra LH và các đợt bốc hoả (lúc bắt đầu có bốc hoả mãn kinh và sự chế tiết LH). Các triệu chứng vận mạch của mãn kinh dường như là do rối loạn chức năng trung tâm điều hòa nhiệt độ của vùng dưới đồi với sự giảm đi đột ngột cơ chế kìm nhiệt ở vùng dưới đồi.

Những thay đổi về sinh lý do việc đổ mồ hôi và co thắt mạch đều là do chức năng của hệ thần kinh giao cảm ngoại biên, những sợi phó giao cảm kích thích tuyến mồ hôi trong khi những sợi thần kinh giao cảm thì điều khiển tình trạng co thắt mạch ngoại biên. Cả hai đáp ứng này đều hạ thấp nhiệt độ trung ương trong suốt thời gian bốc hoả. Những phụ nữ thường đáp ứng với sự khởi đầu của cơn bốc hoả bằng cách cố gắng làm mát cho mình bằng việc mở cửa sổ hay cởi bỏ quần áo quá dày ngay cả khi không có sự gia tăng thật sự trong nhiệt độ trung ương.

Tần suất xuất hiện của các cơn bốc hoả rất khác nhau tuỳ theo từng vùng, từng dân tộc…. Ví dụ: 23% phụ nữ mãn kinh ở Thái Lan, 10% ở phụ nữ Trung Quốc; 56% ở phụ nữ Thụy Điển, 17,6 % ở phụ nữ Singapore; 56% ở phụ nữ Malaysia; hơn 80% ở phụ nữ Hà Lan. Theo M. Yusoff. Dawood 85% phụ nữ mãn kinh có cơn bốc hoả với 65% cơn bốc hoả xuất hiện từ 1 – 5 năm, 26% kéo dài từ 6 – 10 năm, 10% kéo dài trên 10 năm. Theo Kronnenberg (1990) có 60% phụ nữ có cơn bốc hoả trong thời gian 7 năm và 15% trên 15 năm. Mỗi cơn bốc hoả kéo dài trung bình 2,7 phút, có 17,4% phụ nữ mãn kinh có cơn bốc hoả kéo dài hơn 1 phút, 5,7% cơn bốc hoả kéo dài hơn 6 phút. Mỗi cơn bốc hoả có liên quan với sự tăng nhiệt độ, tăng nhịp đập của tim (trung bình 9 nhịp đập/phút và có thể tới 20 nhịp đập/ phút), tăng lưu chuyển máu ở tay chân và máu ở ngoài da.

* Đánh trống ngực

Là một triệu chứng khó chịu thường gặp. Đánh trống ngực có thể là một trong những biểu hiện nổi bật của một đợt lo âu cấp diễn. Tự nhiên có cảm giác run sợ, trong tim rung động, không yên, bệnh phát bất thường, cảm thấy tim đập nhanh trong khoảng thời gian vài giây có khi có cảm giác nặng hoặc đau tức nhẹ ở ngực thoáng qua.

* Chóng mặt:

Là một ảo giác vận động của bản thân hoặc của môi trường thông thường là cảm giác quay, có thể do sinh lý hoặc do rối loạn trong hệ tiền đình. Cảm giác đầu óc quay cuồng, choáng váng, lảo đảo như ngồi trên thuyền tròng trành. Chóng mặt sinh lý kéo dài 3 – 40 giây, nhẹ thì thoáng qua, nặng thì tức ngực, buồn nôn, đổ mồ hôi, nặng hơn thì ngất xỉu. Ở các bệnh nhân này không thấy biểu hiện của rối loạn tiền đình rõ ràng hoặc hội chứng động mạch đốt sống cổ thân nền.

* Các rối loạn ở hệ thống thần kinh tâm lý:

Tính dễ bị kích động ngày càng tăng về hình thái này hay hình thái khác là một biểu hiện thường gặp xảy ra ở hầu hết các bệnh nhân như là một phần của hội chứng mãn kinh. Sự cáu gắt, bất ổn định về cảm xúc và sự mất ngủ ngày càng nặng là những hình thái thường gặp nhất. Nhưng ở một số trường hợp trầm cảm và một trạng thái phủ định thụ động. Các triệu chứng vận mạch là một hiện tượng rối loạn mà bản thân nó đó làm tăng tính xúc cảm và cáu gắt. Giống như các cơn bốc hoả loại phản ứng thần kinh này không thể gán cho là do bản thân sự giảm sút estrogen, nhất là nó thường không hay đi kèm với giảm chức phận tuyến yên và giảm chức phận sinh dục. Trong nhiều trường hợp các yếu tố tâm lý thay đổi đó gây ra một ảnh hưởng quan trọng mà ta không thể ngờ tới. Trong số đó có thể người phụ nữ bất chợt nhận ra là mình đã tới một mốc mới của cuộc đời và sợ hãi là từ nay sẽ già đi. Khả năng sinh đẻ không còn nữa, ung thư và các bệnh thoái hoá sẽ dễ dàng phát triển. Cộng với điều đó là việc tất cả các hiện tượng đó xảy ra vào một giai đoạn trong cuộc đời lúc các con đã lớn và đi xa, hơn nữa chồng thì bận rộn hơn bao giờ hết, do đó khó có thể chăm sóc người phụ nữ một cách chu đáo như mong muốn.

Những bệnh nhân có một tình trạng trầm cảm thì trở nên ít cười, kêu ca mệt, chán nản và mất tin tưởng vào khả năng có thể tiếp tục công việc bình thường. Họ có ý định rút ra khỏi xã hội và họ sợ rằng sẽ mất trí. Thường họ phát triển tình trạng loạn thần kinh thể lo lắng, trong một số trường hợp họ có thể đi tới chứng sầu uất thoái triển thực sự. Việc các triệu chứng này không hết khi điều trị bằng estrogen đã loại bỏ những ngờ vực về việc cho rằng nguyên nhân của hiện tượng này do yếu tố nội tiết gây nên.

* Đau đầu:

Thuật ngữ đau đầu bao hàm tất cả các loại đau ở đầu nhưng trong ngôn ngữ thông thường người ta dùng từ đau đầu chỉ để nói tới những cảm giác khó chịu vùng vòm sọ. Có khoảng 1/3 bệnh nhân than phiền bị đau đầu, coi như một dấu hiệu mới, đau đầu thường được gọi là loại căng thẳng thần kinh và được bệnh nhân mô tả là cảm thấy giống như một sợi dây bó chặt quanh đầu, hoặc đi từ chẩm đến cổ lan ra gáy, ớt khi nó thuộc loại đau nửa đầu.

Một số cho rằng hiện tượng đau đầu ở phụ nữ thời kỳ mãn kinh là kết quả của sự căng phồng của tuyến yên đã cương năng về chức phận. Theo tính chất thì có thể các cơn đau đầu là biểu hiện khác của sự rối loạn hệ thống thần kinh thường hay xảy ra ở người phụ nữ mãn kinh.

* Tâm tính thất thường:

Lúc vui, lúc buồn, hay quên, nhiều khi không làm chủ được khi quyết định một việc gì dù nhỏ nhặt trong sinh hoạt hằng ngày.

* Mất ngủ

Đó là sự giảm sút về thời gian, độ sâu hoặc hiệu quả hồi phục của ngủ, có thể là không ngủ được, muốn ngủ rất khó, giấc ngủ chập chờn dễ bị thức giấc, ngủ không sâu, cả đêm không ngủ, hoặc cả ngày ngủ 2 – 3 giờ, sáng ngủ dậy cảm thấy không thoải mái còn thiếu ngủ, mệt mỏi. Bệnh thường kém chóng mặt, đau đầu, hồi hộp hay quên.

* Dễ bị kích động:

Bệnh nhân cảm thấy bực mình, hay nổi cáu nhiều hơn trước, nhiều khi không làm chủ được bản thân.

* Trầm cảm, lo lắng:

Đó là sự xuất hiện cảm giác chán hoặc buồn vô cớ có khi không cưỡng lại được, nản lòng về tương lai, khó khắc phục những phiền muộn của bản thân gây lo lắng,…

* Mệt mỏi:

Mệt mỏi cũng là một triệu chứng quan trọng, hay gặp trong hội chứng mãn kinh. Bệnh nhân thường cảm thấy mệt mỏi, uể oải, không khoan khoái cả tinh thần và thể chất, dễ bị mệt mỏi trong lao động trí óc cũng như lao động thể lực. Do đó bệnh nhân có thể bỗng dưng thấy khó khăn trong giải quyết một công việc thông thường nào đó.

* Đau cơ, xương khớp:

Đây là một triệu chứng hay gặp trong hội chứng mãn kinh. Bệnh nhân cảm thấy đau nhức ở trong cơ, xương, khớp xương, đau có khi di chuyển có khi cố định xong hầu như không có sưng nóng khớp.

* Cảm giác kiến bò ở da:

Bệnh nhân có cảm giác buồn buồn như một sinh vật nhỏ bé bò đi, bò lại ở trên da tay, chân mình có khi rất khó chịu.

Chẩn đoán hội chứng mãn kinh có thể dễ dàng thiết lập dựa trên các phát hiện về lâm sàng bao gồm cả tuổi bệnh nhân. Các triệu chứng và kết quả thăm khám thực thể. Các triệu chứng vận mạch của hội chứng mãn kinh là đặc biệt nhất và giúp ích nhất trong việc xác định chẩn đoán. Các xét nghiệm cận lâm sàng chỉ giúp thêm vào trong các trường hợp có vấn đề. Các thực nghiệm lâm sàng về nội tiết và các xét nghiệm cận lâm sàng khác để thiết lập một chẩn đoán một hội chứng mãn kinh phải được đánh giá một cách cẩn thận, nhất là không có một thử nghiệm nào tự bản thân nó thiết lập được chẩn đoán. Một vài phát hiện phù hợp với chẩn đoán, một số khác giúp ta loại trừ chẩn đoán.

1.5. Điều trị hội chứng mãn kinh:

Việc điều trị hiện nay bên cạnh việc giải quyết vấn đề tâm sinh lý, thông qua: sinh hoạt ăn uống tập luyện, còn cần tới sự hỗ trợ của thuốc.

Thuốc để điều trị chủ yếu là các chế phẩm của nội tiết tố là Estrogen và Progesteron được gọi là liệu pháp hormon thay thế (LPHTT). Nhằm đem lại cho người phụ nữ một cuộc sống có chất lượng, làm nhẹ các triệu chứng vận mạch và các biểu hiện của hệ thống thần kinh phối hợp mà người ta cho là do thiếu cân bằng nội tiết.

Tuy nhiên dù kết quả có lợi của việc điều trị Estrogen đối với hội chứng mãn kinh, song có một vài bệnh nhân và đôi lúc có một số thầy thuốc không tán thành hay từ chối chấp nhận cách điều trị đó vì nhiều lý do khác nhau. Chính vì vậy một trong những quyết định phức tạp và khó khăn nhất trong chăm sóc sức khoẻ phụ nữ là liệu họ có nên dựng LPHTT sau mãn kinh hay không.

Trong điều trị thầy thuốc phải xác định xem bệnh nhân có chỉ định cần đến LPHTT hay không ? Thầy thuốc cần xem xét những lợi ích và tác hại của LPHTT với bệnh nhân. Nhấn mạnh vào sự thiếu chắc chắn của nhiều vấn đề có liên quan. Những tác dụng phụ có thể xảy ra cũng phải được bàn. Những chống chỉ định đối với LPHTT cũng phải được đánh giá thường quy. Khi điều trị bằng LPHTT đòi hỏi người phụ nữ phải đến cơ sở y tế kiểm tra thường xuyên. Mặc dù LPHTT là phương pháp trị liệu chính xong không phải tất cả phụ nữ có hội chứng mãn kinh đều được điều trị và nên điều trị bằng LPHTT.

Ngoài ra, người phụ nữ ở thời kỳ mãn kinh nên có: một chế độ tập luyện đặc biệt (nên đi bộ), một công việc phù hợp với tuổi già, một cuộc sống thoải mái với gia đình và bạn bè cùng lứa tuổi, dùng Calcium và Vitamin D,…

1.6. Tình hình nghiên cứu về mãn kinh trên thế giới và trong nước

* Trên thế giới:

Việc nghiên cứu mãn kinh nói chung cũng như về hội chứng mãn kinh nói riêng có rất nhiều công trình. Về phần điều trị chủ yếu là nghiên cứu ảnh hưởng của LPHTT tới hội chứng mãn kinh, cũng như ảnh hưởng tới các cơ quan đích mà estrogen, progesteron tác động. Bằng chứng hiển nhiên có liên quan đến những lợi ích và tác hại của trị liệu LPHTT được xác định từ hai thử nghiệm ngẫu nhiên lớn đang tiến hành. Đó là thử nghiệm đề xướng sức khoẻ phụ nữ tại Hoa Kỳ năm 2000 và nghiên cứu quốc tế về sử dụng lâu dài Estrogen sau mãn kinh tại 14 quốc gia dự kiến đến năm 2012 có kết quả. Bên cạnh đó cũng có nghiên cứu về các thuốc không phải hormon để điều trị hội chứng mãn kinh như: clonidin, vitamin E, châm cứu, một số dược thảo có chứa hoạt chất phytoestrogen, đậu nành, bí đao, nhân sâm,…

* Ở Việt Nam

Nghiên cứu về mãn kinh có một số công trình, đặc biệt là đề tài cấp nhà nước do Phạm Thị Minh Đức làm chủ nhiệm. Tuy nhiên kết quả chủ yếu là về phần biến đổi tâm sinh lý và bệnh tật, phần điều trị ít được đề cập. Ở Viện lão khoa Trung ương (1994) đã nghiên cứu bước đầu áp dụng điều trị thay thế bằng estrogen và progestron ở phụ nữ rối loạn tiền mãn kinh và mãn kinh.

2. Theo Y học cổ truyền

2.1. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh

Từ lâu trong Y học cổ truyền, dựa trên quan sát lâm sàng cũng nhận thấy người phụ nữ trước và sau khi hết kinh thường xuất hiện những triệu chứng như: triều nhiệt, xuất hiện các cơn bốc hoả, mặt nóng đỏ, ra mồ hôi, tinh thần mệt mỏi, hay hoa mắt chóng mặt, phiền táo, dễ cáu giận, ù tai, mất ngủ, hay hồi hộp đánh trống ngực, vai lưng đau mỏi, lòng bàn chân bàn tay nóng và thường kèm theo rối loạn kinh nguyệt…tất cả đều có liên quan đến vấn đề hết kinh và gọi là “kinh đoạn tiền hậu chứng” hay là “tuyệt kinh tiền hậu chứng”. Những triệu chứng này xuất hiện có thể nhiều hoặc ít, số lần xuất hiện và thời gian xuất hiện không theo quy luật, quá trình bị bệnh có thể dài ngắn khác nhau (từ vài tháng đến vài năm). Chứng này tương đương với hội chứng mãn kinh của Y học hiện đại.

Sự phát sinh ra hội chứng mãn kinh có liên quan tới đặc điểm sinh lý của người phụ nữ vòng quanh tuổi 49. Ở thời điểm này thần khí đã suy nhiều, thiên quý ít dần và theo hướng suy kiệt, hai mạch Xung- Nhâm cũng từ đấy suy yếu dần đi. Như vậy ở vào khoảng tuổi này người phụ nữ về cơ bản hết khả năng sinh đẻ, chức năng của các tạng phủ cũng suy giảm dần mà chủ yếu là thận khí suy (chủ yếu là tinh, huyết suy dần nên âm dương mất cân bằng) ảnh hưởng tới sự hoạt động của các tạng phủ khác. Do thận là gốc của tiên thiên nên khi ngũ tạng bị tổn thương, bao giờ cũng ảnh hưởng tới thận, dẫn đến chức năng của tạng thận bị suy giảm. Thận dương thận âm mất cân bằng, ảnh hưởng đến sự hoạt động của các tạng phủ khác như: tâm, can, tỳ…làm cho biểu hiện lâm sàng của hội chứng mãn kinh rất phức tạp

2.2. Các thể lâm sàng

– Thể âm hư hoả vượng: người bệnh có các biểu hiện như: tính tình bứt rứt, nóng nảy, dễ cáu gắt, chóng mặt, đau đầu, ngực sườn đầy tức, miệng khô đắng, chân tay run, tê hoặc có cảm giác kiến bò, lưỡi đỏ tía, mạch huyền sác.

– Thể can thận âm hư: người bệnh có các biểu hiện: đau đầu, chóng mặt, bốc hoả, ra mồ hôi, miệng khô, tiểu vàng, táo bón, lưng gối mỏi, đau nhức xương, tai ù, ngũ tâm phiền nhiệt, chất lưỡi đỏ, rêu ớt, mạch tế sác.

– Thể thận dương hư: người bệnh có các biểu hiện: người béo bệu, chân tay lạnh, mệt mỏi, sắc mặt trắng, đau mỏi lưng, tiểu tiện trong hoặc són tiểu, chất lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch trầm trì hoặc tế nhược.

– Thể thận âm thận dương đều hư: người bệnh có các biểu hiện: đau đầu, chóng mặt, ù tai, ngủ ít hay mơ, lúc lạnh lúc nóng, ra mồ hôi, mặt nóng từng lúc, lưng lạnh, lưỡi nhợt hoặc đỏ, mạch trầm nhược.

2.3. Điều trị theo Y học cổ truyền

Các bài thuốc thường dùng để điều trị như Lục vị hoàn, Kỷ cúc địa hoàng hoàn, Tiêu dao đan chi. Ngoài ra, phương pháp không dùng thuốc như: Châm cứu, Xoa bóp, Khí công, Dưỡng sinh cũng được áp dụng trong điều trị.

Đã có một số nghiên cứu sử dụng các bài thuốc và châm cứu để điều trị hội chứng món kinh như:

Nghiên cứu của Đỗ Văn Bách (năm 2003) sử dụng viên “Tiêu dao đan chi” điều trị trên 37 bệnh nhân có hội chứng món kinh đạt kết quả tốt và khá là 75.6%.

Nghiên cứu của Nguyễn Hồng Siêm (2005) sử dụng viên nang “Lục vị” phối hợp với viên nang “Tiêu dao đan chi” điều trị trên 88 bệnh nhân đạt kết quả tốt 61.51%, loại khá 35.2%, loại trung bình 3.29%.

Nghiên cứu của Trần Thu Trang (năm 2006) sử dụng Nhĩ châm các điểm Thần môn, Giao cảm, Nội tiết điều trị trên 30 bệnh nhân với kết quả loại tốt là 36.7%, loại khá 60%.

Nghiên cứu của Trần Xuân Hoan (năm 2007) sử dụng Nhĩ châm kết hợp với Hào châm điều trị trên 63 bệnh nhân với kết quả loại tốt là 49.2%, loại khá 33.33%, loại trung bình 14.28%.

Bài trướcTranh châm cứu do bộ y tế ban hành
Bài tiếp theoĐiều trị dọa sẩy thai (động thai) bằng Y học cổ truyền

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.