SINH LÝ THỤ TINH
Theo y học cổ truyền, tinh người cha thuộc dương, trứng người mẹ (mẫu huyết) thuộc âm, âm dương giao hòa thì sẽ thụ thai.
Sách Linh khu có ghi: “lưỡng thần tương tác, hợp nhị thành hình”. Nghĩa là hai thần chung đúc nhau hợp lại mà nên con người, vật chất để chung đúc ấy là tinh cha và huyết mẹ
Theo Hải Thượng Lãn Ông: Tinh cha huyết mẹ nhân cảm hứng mà giao hội với nhau, tinh nhờ dương tiết ra, huyết thu liễm tinh, tinh thành xương, đó là muôn vật nhờ ở càn nguyên (càn là dương, là cha, nguyên là đầu, là trước, càn nguyên là đức đầutiên của càn tạo ra muôn vật) làm nguồn gốc. Huyết khí hộ vệ bên ngoài, thành bào thai, tinh thì dầy đặc bên trong để hóa sinh nuôi dưỡng, đó là muôn vật sinh trưởng nhờ khôn nguyên (đức đầu tiên của khôn là sinh ra muôn vật)
Âm dương giao cấu, ngưng kết thành thai, chỗ thai ở gọi là tử cung,một cuống ở dưới, trên phân 2 ngả, một ngả thông sang tả, một ngả thông sang hữu.
Trần Tử Minh, danh Y đời Tống (Trung Quốc) có khuyên: Nam giới tuy 16 tuổi đã có tinh nhưng phải đến 30 tuổi mới lấy vợ, nữ giới tuy 14 tuổi đã có kinh nguyệt nhưng đến 20 tuổi lấy chồng, như thế âm dương đều sung túc.
Lý do là ở nữ, đến tuổi 14 thì thiên quý đến, mạch Nhâm Xung đầy đủ, có kinh, ngực nảy nở. Ở nam đến tuổi 16, thiên quý đến, thận khí đầy đủ, tinh khí dồi dào. Nếu giao hợp có thể có thụ thai.
Như vậy thiên quý là kết quả của sự phát triển của thận khí. Nghĩa là khi khí tiên thiên sung mãn đến cực độ thì tạo nên thiên quý. Thiên quý làm mạch Nhâm thông, mạch Xung thịnh mà tạo ra kinh nguyệt ở nữ, tinh khí ở nam. Nếu thiên quý của nam và nữ hòa hợp nhau (âm dương giao hòa) thì tạo ra con cái
Ngoài ra y học cổ truyền cũng cho rằng, thời gian giao hợp cũng có quan hệ rất lớn đối với sự hoài thai.
Sách Diệu nhất trai y học chính ấn chủng tử thiên viết “Giao hợp có thời, vạn vật hóa sinh ắt có thời gian lạc dục”. “Lạc dục” ở đây ý chỉ sự rụng trứng. Người xưa cũng nói “đêm khuya êm dịu, tình cảm vợ chồng thuận hòa, gặp nhau thụ thai, con cái không những trường thọ mà còn trí tuệ hơn người”. Bở lẽ là do “nam nữ tình đồng, giao cảm với nhau, khí cơ thông thương, tinh huyết dồi dào, âm dương tương tác thì tinh huyết hòa trộn mà thành thai”
Như vậy, theo y học cổ truyền, tinh cha huyết mẹ đóng vai trò rất quan trọng để tạo nên con cái. Tinh cha huyết mẹ có lành lặn, đầy đủ thì khí chất của thai nhi mới hoàn bị, yếu tố bẩm sinh mới tốt đẹp.
QUAN NIỆM VỀ VÔ SINH:
Định nghĩa:
Y học cổ truyền (YHCT) rất xem trọng yếu tố “tiên thiên” và “hậu thiên” trong vấn đề vô sinh. Kinh dịch nói: trời đất hun đúc, muôn vật hóa thành, trai gái giao cấu, muôn vật hóa sinh. Đạo trời đất thì âm dương hòa hợp mới nuôi sống được muôn vật, đạo vợ chồng thì âm dương hòa hợp mới sinh nở được con cái. Nếu tinh cha huyết mẹ không đầy đủ mà có thể chửa đẻ thì chưa bao giờ có.
Vô sinh do nữ Đông Y gọi là Chủng tử môn. Chủng tử môn bao gồm các chứng trạng không thụ thai được hoặc đã thụ thai mà không có khả năng để giữ noãn bào đã thụ thai ở lại trong bào cung hoặc không phát triển thành thai nhi.
Cơ chế bệnh sinh
Trong sinh lý về chức năng sinh sản của người phụ nữ theo y học cổ truyền, mạch Xung Nhâm đóng vai trò trọng yếu. Vì mạch Nhâm chủ về bào cung, thống quản mạch âm trong cơ thể con người. Vương Băng nói: “mạch Xung là bể chứa huyết, mạch Nhâm chủ về bào thai. Hai mạch Xung Nhâm nương tựa hỗ trợ nhau tốt thì đấy là suối nguồn của kinh mạch, thai sản”
Các mạch Xung Nhâm Đốc Đới đều khởi đầu từ huyệt hội âm rồi chia ra ba nhánh. Mạch Xung Nhâm nối liền vào dạ con chịu sự ràng buộc của mạch Đới. Vì thế bốn mạch Xung Nhâm Đốc Đới cùng liên quan ảnh hưởng với nhau tạo nên hệ thống quan hệ trực tiếp đến sinh lý của người phụ nữ.
Mạch Xung Nhâm đầy đủ thịnh vượng thì thân thể khỏe mạnh, kinh nguyệt điều hòa, thụ thai sinh nở bình thường. Nếu mạch Xung Nhâm tổn thương có thể gây bệnh Phụ khoa, trong đó có vô sinh. Ngoài những nguyên nhân gây tổn hại trực tiếp đến mạch Xung Nhâm như giao hợp quá độ, sảy thai nhiều lần…thì những nguyên nhân gián tiếp như các yếu tố gây nên khí huyết không điều hòa hoặc gây nên sự rối loạn chức năng của tạng phủ, từ đó cũng gây tổn thương mạch Xung Nhâm.
Nguyên nhân:
Theo YHCT, nguyên nhân vô sinh ở người phụ nữ chia 2 loại: tiên thiên khuyết tật (không có âm đạo, tử cung, buồng trứng kém phát triển…)và bệnh lý hậu thiên.
Bệnh lý hậu thiên cũng do ba nhóm nguyên nhân gây bệnh nội khoa như ngoại nhân, nội nhân, bất nội ngoại nhân thường gặp nhất là nguyên nhân sau:
Nhóm ngoại nhân có Hàn, Nhiệt Thấp.
Nhóm nội nhân có Buồn, lo nghĩ nhiều, giận hờn ghen
Nhóm bất nội ngoại nhân do ăn uống không điều độ, uống thuốc không đúng cách, lao lực quá độ, phòng dục quá độ.
Các thể bệnh lý hậu thiên thường gặp là: hư hàn, huyết hư, đàm thấp, can uất và huyết nhiệt .
- Tỳ Thận Hư hàn
Triệu chứng: bụng dưới thường bị lạnh và đau thất thường, kinh kỳ không đều, sắc huyết nhợt nhạt, huyết trắng khí hư, rêu lưỡi mỏng, kiêm thận hư thì tinh thần hay mỏi mệt; hay đau lưng, mỏi chân, tiểu nhiều, kinh nguyệt ra ít, hơi lãnh cảm, chất lưỡi nhợt, nếu chân dương kém thì lưng đau như gãy, bụng dưới lạnh, chân tay lạnh, kinh nguyệt muộn, có bạch đới đái rắt hoặc đái không cầm.
Do lúc đang hành kinh không giữ gìn cẩn thận, ăn đồ sống lạnh hoặc vì tham dâm vô độ, sống nơi ẩm ướt làm tổn hại mạch Xung Nhâm khiến chân dương không đầy đủ,không khí hóa hàn thấp mà dồn vào làm lạnh dạ con.
- Huyết hư hàn :
Triệu chứng: thể trạng hư suy, kinh kỳ ít có khi ra muộn, bất thường; sắc mặt vàng xanh, tinh thần mỏi mệt, hay chóng mặt, hoa mắt, lưỡi nhợt rêu mỏng, mạch hư sác hoặc trầm tế. Thân thể vốn yếu, âm huyết kém yếu mà không giữ được tinh.
- Đàm thấp trở trệ Bào cung
Triệu chứng: tình trạng hình thể béo mập, đầu choáng, tim hồi hộp bạch đới đặc dính mà nhiều, khi có kinh thì không đều, sắc nhợt mà nhiều, lưỡi nhợt rêu nhớt, mạch hoạt.
Do ăn chất béo bổ sinh đờm thấp tích trệ ở bào cung làm cho bào cung không dưỡng được tinh.
- Can khí uất
Triệu chứng: người phụ nữ hay uất ức không vui, có kinh nguyệt không định kỳ, ngực sườn không thư thái hoặc bụng hay đầy chướng, ngủ hay mộng mị những điều không tốt, người thụ động, ít nói cười. Do can không sơ tiết bình thường mà khí huyết mất điều hòa.
- Âm hư, thấp nhiệt Xung Nhâm
Triệu chứng: trước lúc hành kinh hay có triệu chứng đau bụng dưới, đau đầu, chóng mặt; kinh nguyệt thì đỏ lợm, khô đặc, môi hay bị khô. Tuy nhiên cơ thể không sút kém, ăn uống và đại tiểu tiện bình thường…
Do uống nhiều thuốc nóng quá hoặc huyết hư hóa nhiệt, nhiệt ẩn náu ở mạch Xung Nhâm làm khí huyết mất cân bằng.
- Theo Hải Thượng Lãn Ông: phụ nữ không có thai, có người do lục dâm thất tình làm tổn thương mạch Xung Nhâm, hoặc bệnh cũ ẩn nấp, di chuyển trong tạng phủ, hoặc tử cung hư lạnh, hoặc khí thịnh huyết suy, tỳ vị hư tổn. Do đó không nuôi dưỡng được mạch xung nhâm hoặc tích đờm ngưng trệ ở bào lạc.
Tóm lại, bệnh lý không thụ thai có rất nhiều , đúc kết lại chỉ do dị tật bẩm sinh tiên thiên và bệnh gây ra ở hậu thiên. Không thai nghén về tiên thiên không thuốc nào trị được, không thai nghén hậu thiên chứng trạng chính là do rối loạn kinh nguyệt.
Vô sinh nam: do đàn ông phòng lao quá độ, tiết tinh quá nhiều, tinh loãng như nước, hoặc lạnh như băng, lo nghĩ quá nhiều.. .Tất cả các nguyên nhân ấy đều dẫn đếnkhó có con
Vì tâm chủ thần, tâm có lo nghĩ thì thần chạy ra ngoài, làm cho quân hỏa bị uất mà không xuống được. Thận chủ chí, thận có nhọc mệt thì chí loạn ở trong dẫn đến thận thủy thiếu mà không thăng lên được. Trên dưới (tâm ở trên, thận ở dưới) không giao hòa với nhau, mà có thể sinh dục được thì chưa bao giờ có.
Đông Y chia vô sinh nam thành tám bệnh danh chính:
- Thận âm khuy hư: tinh dịch lượng ít, số lượng tinh trùng giảm, lưng đau gối mỏi, nóng lòng bàn tay bàn chân, cảm giác sốt về chiều, thất miên, đạo hãn, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ.
- Thận dương bất túc: tinh dịch lạnh loãng, số lượng tinh trùng giảm, độ di động kém, mệt mỏi, tay chân lạnh, sợ lạnh, liệt dương hoặc di tinh, tiểu đêm nhiều.
- Khí huyết khuy hư: tinh dịch loãng, số lượng tinh trùng giảm, giảm ham muốn, liệt dương hoặc xuất tinh sớm, gầy yếu, mất ngủ, hay quên, ăn kém, đại tiện lỏng.
- Tỳ thận dương hư: tinh dịch lạnh loãng, số lượng và chất lượng tinh trùng giảm, giảm ham muốn, liệt dương hoặc di tinh, lưng đau gối mỏi, ngũ canh tả.
- Đàm trọc trở trệ can mạch: tinh dịch lượng ít, không có hoặc có rất ít tinh trùng, khó xuất tinh, tinh hoàn hay sưng nề, tức ngực, béo bệu.
- Thể huyết ứ trở trệ kinh can: giãn tĩnh mạch thừng tinh, đau khi xuất tinh, không có hoặc có rất ít tinh trùng, tỷ lệ chết cao, bụng dưới và bìu đau chướng, lưỡi có điểm ứ huyết.
- Thể Thấp nhiệt phạm can mạch: Tinh dịch đặc lâu hóa lỏng và có nhiều bạch cầu, chất lượng tinh trùng giảm, tỷ lệ chết nhiều, sau sinh hoạt hay đau tức dương vật và tinh hoàn, tiểu tiện sẻn đỏ, có cặn đục, chân tay mỏi nặng, tâm phiền miệng khát, đại tiện khó, lưỡi đỏ rêu vàng dính.
- Hàn trệ can mạch: Tinh dịch lạnh loãng, bộ hạ đau chướng và lạnh, sau sinh hoạt bụng dưới và tinh hoàn đau tức, lưng đau gối mỏi, tay chân lạnh, sợ lạnh, lưỡi nhợt và bệu, mạch căng như dây đàn.