Bệnh Trĩ
A) Chữa bệnh trĩ theo YHHĐ
I) ĐẠI CƯƠNG:
Là bệnh được tạo thành do giãn quá mức các đám rối tĩnh mạch trĩ. Trĩ có thể không chảy máu, nhưng thông thường Trĩ gây chảy máu trong và sau đại tiện.
Bệnh trĩ là bệnh thường gặp, gặp nhiều ở người lao động tĩnh tại, táo bón kéo dài. đứng hàng đầu trong các bệnh lý vùng hậu môn đến nhập viện.
Bệnh nhân mắc bệnh trĩ thường đi khám và điều trị rất muộn sau nhiều năm, vì bệnh tuy có ảnh hưởng tới cuộc sống nhưng không nặng nề nên bệnh nhân thường bỏ qua và vì bệnh ở vùng kín đáo nên bệnh nhân thường ngại ngùng nhất là phụ nữ, hay gặp ở người lớn, ít gặp ở trẻ em
+Bệnh ít nguy hiểm nhưng gây nhiều ảnh hưởng trong sinh hoạt, công tác và tâm sinh lý của người bệnh
+ Mất máu ít một kéo dài gây thiếu máu mạn tính, cỏ thể suy yếu dần
+ Trĩ lồi ra ngoài hậu môn gây bẩn hôi tanh.
+ Bệnh được biết sớm từ thời cổ đại
Chữa Bệnh Trĩ theo y học hiện đại
II) MỘT VÀI ĐIỂM NHẮC LẠI VỀ GIẢI PHẪU SINH LÝ ỐNG HẬU MÔN
1)Tổ chức học ống hậu môn:
Được đường răng lược chia làm hai phần phần trên van và phần dưới van.
a. Phần trên van: Đỏ sẫm có đám rối mạch máu trĩ trong. Niêm mạc che phủ là biểu mô trụ không có cảm giác đau, nếp niêm mac hình tổ chim tạo thành các van va các cột Morgani.
b. Phần dưới van: Là phần da nhận cảm của ống hậu môn từ trên xuống gồm:
– Vùng lược ( Le Pecten)
– Vùng da ( La peau )
Ranh giới của hai vùng là đường trắng Hilton
* Ống hậu môn đựơc giới hạn bởi:
– Trên là đường hậu môn trực tràng
– Dứơi là đường hậu môn đáy chậu
2) Tuần hoàn bình thường của lớp dưới niêm mạc – da.
a – Về hệ thống động mạch:
Phong phú, có nhiều mạch ngang
b – Về hệ thống tĩnh mạch:
Bắt nguồn từ hệ thống tĩnh mạch đặc biệt, được hình thành do các đám rối ở trong thành trực tràng và nhất là lớp dưới niêm mạc chúng tạo thành hệ thống xoang tĩnh mạch là nguồn gốc của các búi trĩ.
c – Về hệ thống mao mạch và cấu trúc tổ chức học của lớp dưới niêm mạc:
+Tổ chức dưới niêm mạc có tính đàn hồi lớn, và hệ thống mao mạch cũng tham gia vào cơ chế này.
+ Lớp hạ niêm mạc có nhiều sợi thần kinh không Myelin
+ Hệ thống nối động tĩnh mạch không giống các Shunt động – tĩnh mạch mà Masson mô tả trong tuần hoàn mao mạch
III) BẢN CHẤT CỦA TRĨ.
Được coi như tổ chức bình thường.
Cơ chế bệnh sinh:
a. Thuyết dãn tĩnh mạch: cho rằng trĩ là tình trạng dãn tĩnh mạch hậu môn trực tràng do:
+ Dãn tĩnh mạch do tăng áp lực tĩnh mạch.
+ Dãn tĩnh mạch do thành tĩnh mạch yếu, thành tĩnh mạch có tốn tại những điểm yếu gọi là điểm trĩ.
b. Thuyết nhiễm khuẩn: Hốc tuyến hậu môn trực tràng làm tổn thương thành tĩnh mạch
c. Thuyết tăng sinh mạch máu:
Cho rằng trĩ là do tăng sinh mạch máu hậu môn, cụ thể là tăng phì đại các ((thể hang)) của hậu môn trực tràng, tạo nên các khoang chứa máu là các túi đựng máu có thích nghi và chảy máu trong trĩ là máu động mạch màu đỏ tươi.
d. Thuyết sa lớp lót hậu môn
Lớp đệm hậu môn (anal cushions) bình thường có tác dụng lót lòng để khép kín ống hậu môn. Khi đại tiện, rặn nhiều các ((đệm)) căng vì chứa nhiều máu dễ bị đẩy ra ngoài. Nếu tái diễn nhiều lần làm cho dây chằng Parks dãn, trùng nhão, đứt, búi trĩ sa và dẫn đến rối loạn tuần hoàn tại chỗ bệnh trĩ xuất hiện với biểu hiện sa và chảy máu tại búi trĩ, sa búi trĩ có trước chảy máu. Thuyết này được nhiều tác giả ủng hộ.
Một số nguyên nhân và điều kiện thuận lợi:
– Rối loạn tiêu hoá và lưu thông ruột: táo bón, ỉa lỏng, bệnh lỵ mót rặn nhiều nhất là lỵ amíp, viêm đại tràng mạn …
– Một số hình thức lao động, thể dục thể thao gây một gắng sức mạnh làm mất cân bằng đột ngột của tuần hoàn tại chỗ vùng hậu môn trực tràng, hoặc làm việc tĩnh, ngồi nhiều, đứng nhiều, ít đi lại, vận động.
– Một số giai đoạn sinh lý của cơ thể nhất là phụ nữ: hành kinh, có thai, sau sinh đẻ, giai đoạn nội tiết.
– Ăn uống: lạm dụng quá mức gia vị, bia rượu, cà phê và chất kích thích.
– Dị ứng tại chỗ: do dùng kháng sinh, thuốc chống viêm, thuốc đặt ở hậu môn, thuốc chống cúm …
– Vùng địa lý: một số vùng gặp nhiều người mắc bệnh trĩ: Địa Trung Hải, Bắc Phi, ĐôngNamÁ…
– Gia đình và di truyền: có một số gia đình nhiều người mắc bệnh trĩ
– Các bệnh chuyển hoá: béo phì, đái đường, goutte …
IV) PHÂN LOẠI
1. Theo bệnh nguyên bệnh sinh:
– Trĩ triệu chứng là hậu quả của một bệnh đã được biết rõ: tăng áp lực tĩnh mạch cửa, k trực tràng, phụ nữ có thai.
– Trĩ bệnh: hay bệnh trĩ. còn gọi là trĩ vô căn
2. Theo vị trí giải phẫu:
Lấy đường lược làm mốc chia ra:
2.1. Trĩ nội:
Chân túi trĩ ở trên đường lược, niêm mạc tuyến của trực tràng phủ bíu trĩ.
2.2. Trĩ ngoại:
Chân búi trĩ ở dưới đường lược, da ống hậu môn (niêm mạc Hermann) phủ búi trĩ.
2.3. Trĩ hỗn hợp:
Có cả búi trĩ ở trên và dưới đường lược.
3. Theo chu vi vòng ống hậu môn:
Có thể định vị búi trĩ theo mặt kim đồng hồ điểm bao nhiêu giờ (chiều kim đồng quay chạy) ở tư thế sản khoa hoặc gối – ngực (chổng mông). Thường hay gặp trĩ nội ở điểm 1 giờ (búi phải sau), 5 giờ (búi phải trước), 9 giờ (búi ngang trái) tư thế gối – ngực.
4. Theo mức độ sa:
Hiệm nay có thể chia độ trĩ như sau:
– Độ 1: là trĩ ở giai đoạn khởi đầu, búi trĩ nổi lên ở trong ống hậu môn, khi đại tiện hoặc rặn thì búi trĩ cương to lên nhưng chưa lòi ra khỏi ống hậu môn, dễ chảy máu.
– Độ 2: các búi trĩ to thành búi rõ rệt, khi đại tiện hoặc rặn búi trĩ lòi ra khỏi lỗ hậu môn, khi thôi rặn tự co vào được, có chảy máu hậu môn.
– Độ 3: các búi trĩ khá lớn, sa ra ngoài khi gắng sức hoặc rặn, không tự co vào được phải đẩy lên. Có búi trĩ phụ, có chảy máu hậu môn, có thể thiếu máu toàn thân
– Độ 4: các búi trĩ lớn, ngoài các búi chính còn có búi trĩ phụ, sa thường xuyên nằm ngoài ống hậu môn. Các búi trĩ liên kết với nhau tạo thành vòng trĩ. Có thể có chảy máu gây thiếu máu mạn tính.
5. Theo tiến triển và biến chứng:
5.1. Trĩ thường;
5.2. Trĩ chảy máu kéo dài gây thiếu máu:
Đây là biến chứng hay gặp nhiều bệnh nhân đến viện với triệu chứng thiếu máu nặng
5.3. Trĩ có huyết khối và viêm tắc tĩnh mạch trĩ:
Do ứ máu, chấn thương búi trĩ, rối loạn chế độ ăn uống và đặc biệt là sự co thắt của cơ thắt
5.4. Vỡ búi trĩ:
Gây tụ máu cấp tính ở rìa hậu môn, màu đỏ sẫm và đau dữ dội.
5.5. Trĩ có sa búi trĩ và niêm mạc hậu môn trực tràng:
Bệnh trĩ lâu ngày không được điều trị dẫn đến sa các búi trĩ. Trĩ sa ra ngoài ống hậu môn là các búi tiên phát hoặc các búi tiên phát và thứ phát kết hợp với nhau tạo thành vòng trĩ có niêm mạc trực tràng cùng sa. Trĩ kết hợp với sa niêm mạc trực tràng thành vòng gọi tắt là trĩ vòng (circular hemorrhoids)
5.6. Trĩ nghẹt:
Do trĩ nội sa ra ngoài, cơ thắt co bóp làm nghẹt, phù nề thiếu máu nuôi dưỡng dẫn tới hoại tử, viêm và chảy máu.
5.7. Trĩ có rối loạn chức năng cơ thắt:
– Yếu cơ thắt hậu môn: do trĩ sa lâu ngày, sa thường xuyên làm yếu cơ thắt và bệnh nhân không giữ được phân, hơi (trung tiện mất tự chủ).
– Tăng trương lực cơ thắt gây co thắt dẫn tới đau. Một trong những
biện pháp để đánh giá trương lực cơ thắt là đo áp lực hậu môn.
5.8. Trĩ có các bệnh kèm theo:
– Nứt hậu môn
– Viêm nhiễm hậu môn trực tràng ở các hốc tuyến.
– Áp xe quanh hậu môn
– Rò hậu môn.
V) CHẨN ĐOÁN
1. Triệu chứng Cơ năng
– Đại tiện ra máu: thường gặp là lý do bệnh nhân đến khám bệnh. Máu màu đỏ tươi (máu mao mạch) ra cuối bãi phân, chảy nhỏ giọt hoặc thành tia như cắt tiết gà.
– Cảm giác khó chịu ở hậu môn: Đau, căng ,rát, tức, khó chịu, sưng đau hậu môn, ngứa ngáy khó chịu, có thể chảy dịch.
– Sa búi trĩ ra ngoài ống hậu môn khi đại tiện, đi bộ hoặc ngồi xổm lâu, lúc đầu tự co lên về sau phải đẩy mới lên và cuối cùng thường xuyên sa ra ngoài.
– Các triệu chứng khác như: Trung tiện không tự chủ, ướt đũng quần, lát tầng hóa trên đường lược
2. Triệu chứng Thực thể:
– Thăm trực tràng Nhìn ngoài: có thể thấy búi trĩ to sa ra ngoài ống hậu môn
– Cho bệnh nhân ngồi xổm rặn đại tiện để xem mức độ sa và chảy máu của trĩ
– Soi hậu môn trực tràng: thấy búi trĩ màu tím, chân búi trĩ nằm ở vị trí nào so với đường lược, phát hiện các tổn thương để chẩn đoán phân biệt.
– Khám toàn thể để phát hiện các bệnh khác mà trĩ chỉ là một biểu hiện
Biến chứng: chảy máu kéo dài gây nên tình trạng thiếu máu, nghẹn búi trĩ, huyết khối búi trĩ.
3. Cận lâm sàng:
Soi hậu môn trực tràng: soi bằng ống soi hậu môn: soi bằng ống soi mềm chẩn đoán bệnh lý hậu môn trực tràng không chính xác bằng soi hậu môn. Khi soi giúp xác định số lượng các búi trĩ, phân độ các búi trĩ, xác định biến chứng. xác định trĩ nội, trĩ ngoại.
– Trĩ ngoại: là búi trĩ dưới đường lược, lòi ra khỏi ống hậu môn, nhìn ngoài thấy búi trĩ.
– Trĩ nội: Các búi trĩ nằm trên đường lược, thường có 3 búi trĩ vị trí 11 giờ, 15 giờ, 5 giờ và 2 giờ. Khi có nhiều búi trĩ và các búi trĩ liên tục với nhau được gọi là Trĩ vòng.
– Trĩ hỗn hợp: trĩ nội và trĩ ngoại kết hợp
4. Chẩn đoán phân biệt:
– Ung thư ống hậu môn: Phân máu đỏ tươi, đau rát hậu môn đau liên tục, đau tăng khi đại tiện, luôn có cảm giác mót rặn. Soi hậu môn: phát hiện khối u sùi loét ống hậu môn
– Sa trực tràng: niêm mạc trực tràng hay đoạn trực tràng sa ra ngoài không có mạch máu căng giãn.
VI) ĐIỀU TRỊ
Điều trị nội khoa
Thay đổi lối sống:
+ Tránh lao động thường xuyên ở tư thế ngồi hay đứng quá lâu
+ Không ăn các chất kích thích chua cay, không rượu bia thuốc lá.
+ Ăn nhiều rau quả tươi và chất xơ tránh táo bón. Uống nhiều nước.
+ Các thuốc nhuận tràng nếu có táo bón: nhuận tràng nhóm tăng tạo khối lượng phân, nhuận tràng thẩm thấu. Hạn chế dùng nhóm nhuận tràng kích thích.
1. Điều trị nội khoa bằng thuốc:
+ Thuốc có tác dụng tăng cường hệ tĩnh mạch: Thuốc có tác dụng tăng cường sức bền mạch máu, làm giảm tính căng giãn và ứ trệ của tĩnh mạch: Daflon, Ginkofont.
Cách dùng: Trĩ cấp, đang chảy máu: Daflo viên 500mg liều 6 viên – 4 ngày, rồi 4 viên – 4 ngày tiếp và giảm xuống 2 viên trong 6 ngày.
+ Thuốc đường tại chỗ: Thuốc bôi hay viên đặt: là thuốc hỗ trỡ giúp tăng cường trương lực tĩnh mạch và giảm đau do một số thuốc có bổ sung thêm lidocain: Titanorein, Proctoloc …
Chú ý:
– Điều trị biến chứng:
+ Huyết khối trĩ: Rạch búi trĩ lấy cục máu đông. Điều trị tiếp bằng thuốc hay phẩu thuật.
+ Trĩ nghẹt: Đẩy búi trĩ lên, không nên cố nếu cố có thể làm bệnh nhân đau.
+ Trĩ chảy máu: điều trị thắt vòng cao su đối với trĩ độ I, II
2. Điều trị bằng các thủ thuật:có tới 80 – 90% bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp này. Thường áp dụng cho trĩ độ I, II.
a-Chích xơ:
Là phương pháp dễ thực hiện, đơn giản, nhanh chóng và an toàn. Tuy nhiên, người thực hiện thủ thuật phải là bác sĩ có kinh nghiệm với kỹ thuật vững vàng mới cho kết quả tốt và tránh được các biến chứng. Mục đích chính của chích xơ là giảm lưu lượng máu đến búi trĩ, tạo mô sẹo xơ dính vào lớp cơ dưới lớp dưới niêm mạc giúp giảm triệu chứng chảy máu.
Chích xơ được chỉ định trong trĩ độ 1 và trĩ độ 2,
Trong kỹ thuật chích xơ cần chú ý một số việc:
– Sử dụng đúng loại kim: Kim dài, có ngạnh chặn ở gần đầu kim để tránh xuyên thấu sâu, nếu có kim gập góc thì rất tốt, ống chích chuyên dùng. Thuốc chích xơ thường dùng hiện nay là dầu phenol 26 và polidocanol.
-Vị trí chích là ở gốc búi trĩ, nằm trên đường lược và ở đáy búi trĩ. Khối lượng thuốc bơm khoảng 3-5 ml, bom chậm, trong lúc bom thuốc nếu thấy chỗ chích đổi màu trắng là chích vào lớp thượng bì, ngừng chích ngay vì sẽ gây biến chứng loét hoại tử sau chích. Vị trí chích thông thường là ở 4giờ , 7giờ và 11giờ.
-Biến chứng:
*Chảy máu chỗ chích: nếu phát hiện trong lúc chích dùng gạc đè vào, nếu không giảm dùng dụng cụ thắt trĩ bằng vòng cao su thắt vùng chảy máu.
*Chích vào tuyến tiền liệt: trong trường hợp chích quá sâu ở vị trí 11giờ-1giờ có thể gặp biến chứng bí tiểu, viêm mào tinh và tinh hoàn, viêm tuyến tiền liệt, rò hậu môn âm đạo…
b-Thắt trĩ bằng vòng cao su:
Thắt trĩ bằng vòng cao su được chỉ định điều trị trĩ nội độ 1 và 2, một số tác giả áp dụng cho cả trĩ nội độ 3 nhưng kết quả giới hạn.
Thắt trĩ bằng vòng cao su đã được thực hiện từ thế kỷ 19 nhưng vì cột búi trĩ chung với cả da quanh hậu môn nên sau thắt rất đau, cho nên không được sử dụng rộng rải. Đến năm 1958 Blaisdell đã thành công với việc chỉ cột búi trĩ không có lẫn da và các mô chung quanh. Barron 1963 đã tạo ra dụng cụ để thắt trĩ với vòng cao su và sau đó với dụng cụ cải tiến của Mc Giveny đã đưa điều trị thắt trĩ với vòng cao su thành một phương pháp điều trị trĩ thành công và được lựa chọn hàng đầu trong các phương pháp điều trị bằng thủ thuật.
Nguyên tắc chính của thắt vòng cao su là giảm lưu lượng máu đến búi trĩ, tạo mô sẹo xơ dính vào lớp cơ dưới lớp dưới niêm mạc, do đó sẽ cố định ống hậu môn đúng với nguyên tắc bảo tồn lớp đệm hậu môn.
c-Quang đông hồng ngoại:
Phương thức sử dụng nhiệt điều trị trĩ đã được thực hiện hàng trăm năm nay. Mục tiêu của phương pháp làm đông là làm cho mô bị đông lại bởi tác động của sức nóng, tạo nên sẹo xơ làm giảm lưu lượng máu đến búi trĩ và cố định trĩ vào ống hậu môn. Với tia Laser, dòng điện cao tần cũng có tác động làm đông như tia hồng ngoại, nhưng sự chính xác về độ sâu xuyên thấu của tác động làm đông của 2 phương pháp này không chính xác bằng tia hồng ngoại với máy quang đông. Sự xuyên thấu mô của tia hồng ngoại được định trước bằng cách điều chỉnh tốc độ của tia và độ hội tụ chính xác trên lớp mô này. Máy quang đông hồng ngoại có lợi là không gây nhiễu các dụng cụ điện tử gắn trên người bệnh như máy điều hòa nhịp tim.
Quang đông hồng ngoại được chỉ định với trĩ nội độ 1 và độ 2. Phương pháp này có ưu điểm là không đau, an toàn, cầm máu rất hiệu quả nhưng có nhược điểm là máy khá đắt và thường phải làm thủ thuật nhiều lần.
d. Thắt búi trĩ bằng chỉ không cắt:
Kẹp thắt tận gốc búi trĩ, sau 5 – 7 ngày hoại tử và rụng. Hiện nay ít dùng vì sau thắt bệnh nhân rất đau.
e. Tia hồng ngoại (Neiger – 1979):
Chiếu tia hồng ngoại vào vùng búi trĩ (1 giây) làm đông đặc niêm mạc và búi trĩ
3. Điều trị phẫu thuật
A. Chỉ định phẫu thuật:áp dụng cho trĩ độ III, IV trĩ điều trị bằng các phương pháp khác không kết quả
. Trĩ nội sa ra ngoài kèm theo đau ngứa, rát, khó chịu ở hậu môn
. Trĩ có biến chứng chảy máu dai dẳng gây thiếu máu
. Trĩ có biến chứng gây yếu cơ thắt hậu môn
. Trĩ kèm theo nứt, dò, viêm quanh hậu môn
. Trĩ có biến chứng huyết khối, viêm, phù nề, nghẹt và hoại tử
. Trĩ kết hợp với sa niêm mạc trực tràng ( trĩ vòng)
B. Phẫu thuật:
1-Nhóm phẫu thuật 1: gồm 2 nhóm phẫu thuật
a-Phẫu thuật Cắt bỏ toàn bộ vòng trĩ:
Áp dụng cho các trường hợp trĩ vòng, trĩ có sa niêm mạc trực tràng, hậu môn.
– Phẫu thuật Whitehead 1882: cắt bỏ vòng niêm mạc trĩ bị sa, khâu nối phần niêm mạc trực tràng và da ống hậu môn. Đây là phẫu thuật triệt để trong điều trị trĩ, nhưng gây mất máu nhiều trong mổ sau mổ có các biến chứng và di chứng: đại tiện mất tự chủ không giữ được phân, hơi, sẹo vòng gây chít hẹp hậu môn, lộn niêm mạc gây tiết dịch và ẩm ướt hậu môn… Phương pháp ít được áp dụng và bị lãng quên. Một số tác giả: Buie – 1932, Toupet – 1969,Rand- 1969, Chen – 1979, Wolff – 1988,.…đã cải tiến phẫu thuật này để khắc phục các biến chứng trên và mang lại kết quả tốt.
– Phẫu thuật cắt bỏ vòng trĩ với dụng cụ tự tạo ở bệnh viện 103: sử dụng dụng cụ hình trụ làm nòng tựa, chỉ tựa để kéo vòng niêm mạc trĩ, dây cao su để ga rô cầm máu tạm thời với tác dụng: Tạo lên trường mổ bên ngoài ống hậu môn, bịt kín ngăn trực tràng không thông với vùng mổ, có điểm tựa để bộc lộ vòng niêm mạc trĩ, có điểm tỳ để rạch cắt và phẫu tích, có nòng để ga rô cầm máu và đảm bảo đường kính ống hậu môn cố định khi khâu nối, tránh hẹp hậu môn. Đây là phẫu thuật ít chảy máu trong mổ, thời gian mổ ngắn, chủ động thao tác kỹ thuật cắt bỏ, tạo diện cắt tròn phẳng, tái tạo lại ống hậu môn có tiết diện phù hợp với sinh lý hậu môn, không gây tổn thương cơ thắt, tránh được các nhược điểm của phẫu thuật Whitehead. Phương pháp mổ này an toàn, đơn giản, kết quả điều trị tốt, đã được ứng dụng ở nhiều cơ sở phẫu thuật tuyến bệnh viện (Nguyễn Văn Xuyên – 1991).
– Phẫu thuật Longo – 1998: cắt bỏ vòng niêm mạc trĩ và khâu nối bằng máy (Stapling procedure), sử dụng máy khâu nối PPH (Procedure for Prolapse and Hemorrhoids). Hiện nay phẫu thuật này đang được ca ngợi nhưng giá thành cao cho 1 lần phẫu thuật và chưa đánh giá được kết quả sa
b-Phẫu thuật cắt từng búi trĩ:
Nguyên tắc phẫu thuật này là cắt riêng biệt từng búi trĩ một, để lại ở giữa các búi trĩ các mảnh da-niêm mạc (cầu da niêm mạc). Hay sử dụng cho các trường hợp có 3 búi trĩ đơn lẻ ở các vị trí thường gặp.
* Phẫu thuật Milligan – Morgan – 1937
Cắt 3 búi trĩ ở vị trí thường gặp 3giờ, 6 giờ, 11 giờ tư thế sản khoa, bắt đầu từ mép hậu môn tới tận gốc. Cắt bỏ búi trĩ và tổ chức phủ, thắt gốc, để ngỏ vết mổ. Đây là phương pháp hay được áp dụng.
* Phẫu thuật cắt trĩ dưới niêm mạc Parks – 1956:
Bóc tách tổ chức trĩ dưới niêm mạc, cắt, thắt búi trĩ, để lại vạt da niêm mạc phủ búi trĩ, sau mổ tạo thành các vạt da thừa hậu môn.
* Cắt trĩ khâu kín phẫu thuậtFerguson- 1959: thực hiện như phẫu thuật Milligan – Morgan nhưng vết mổ được khâu kín, nên dễ áp xe và viêm nhiễm vết mổ.
Nhóm phẫu thuật này tránh được các biến chứng của nhóm phẫu thuật cắt khoanh niêm mạc da, nhưng vẫn còn nhược điểm là đau sau mổ, thời gian nằm viện dài, thời gian trở lại lao động muộn và không hiệu quả trong các trường hợp trĩ vòng.
2-Nhóm phẫu thuật 2:
Xuất phát từ các nhược điểm của nhóm phẫu thuật dưới cột Morgagni và các phát hiện mới về sinh bệnh học, từ thập niên 90, dựa trên nguyên tắc bảo tồn khối đệm hậu môn, giảm lưu lượng máu đến búi trĩ và thu nhỏ thể tích khối trĩ, một số phẫu thuật mới đã ra đời với nguyên tắc treo hậu môn như PT Longo, khâu treo trĩ bằng tay và nguyên tắc thu nhỏ thể tích khối trĩ như PT khâu cột động mạch trĩ dưới hướng dẫn của siêu âm Doppler.
a-Phẫu thuật Longo (1993):
Là phẫu thuật sử dụng máy khâu vòng để cắt một khoanh niêm mạc trên đường lược 2-3 cm và khâu vòng bằng máy bấm. Nguyên tắc của phẫu thuật này là cắt và khâu khoanh niêm mạc, nhằm mục đích giảm lưu lượng máu đến đám rối tĩnh mạch trĩ để thu nhỏ thể tích trĩ và treo được đệm hậu môn vào ống hậu môn. Phương pháp này được ưa chuộng vì không đau, thời gian nằm viện ngắn, trả bệnh nhân về lao động sớm, nhược điểm này là chi phí cao, chưa được đánh giá đầy đủ về hiệu quả do thời gian theo dõi còn ngắn 15.
b-Khâu treo trĩ bằng tay:
Đây là phương pháp cải biên của phẫu thuật Longo ở các nước đang phát triển do giá thành cao của PT Longo . PT này đã được Ahmed M Hussein, Nguyễn Mạnh Nhâm, Nguyễn Trung Vinh, Nguyễn Trung Tín báo cáo ở các hội nghị. Phương pháp này cũng dựa trên nguyên tắc của phẫu thuật Longo là làm giảm lưu lượng máu đến búi trĩ để thu nhỏ thể tích khối trĩ và treo búi trĩ lên ống hậu môn bằng các mũi khâu tay khâu xếp nếp niêm mạc trên đường lược 2-3 cm. Phương pháp này chỉ mới được báo cáo sau năm 2001.
c-Khâu cột động mạch trĩ dưới hướng dẫn của siêu âm Doppler:
Phương pháp này được Kazumasa Morinaga thực hiện lần đầu năm 1995, với một dụng cụ có tên là Moricorn, là một máy gồm một đầu dò siêu âm Doppler gắn liền trong một ống soi hậu môn, qua dụng cụ này tác giả dò tìm 6 động mạch, là những nhánh tận của động mạch trực tràng trên, và các nhánh động mạch này được khâu cột ở vị trí trên đường lược 2cm.
Nguyên tắc của phương pháp này là làm giảm lưu lượng máu đến các búi trĩ, chỉ áp dụng cho trĩ nội độ 2 và 3, ưu điểm của phương pháp này là không đau và bảo tồn được đệm hậu môn.
Cả ba phương pháp này không giải quyết được các trường hợp trĩ nội tắc mạch và các trường hợp có mẫu da thừa lớn.
D. Các biến chứng sau mổ:
– Chảy máu sau mổ gặp ngay ngày đầu hoặc thứ phát vào ngày 5-10.
– Nhiễm khuẩn mưng mủ, sưng nề quanh hậu môn.
– Rối loạn tiểu tiện kiểu bí đái:
– Đau nhức hậu môn vì khâu buộc vào da ống hậu môn và cơ thắt.
– Hậu môn ướt do lộn niêm mạc ra ngoài.
– Chít hẹp hậu môn có thể ở mức độ nhẹ, vừa, nặng.
– Da thừa hậu môn.
– Nứt kẽ hậu môn.
– Són phân không kìm chế, không giữ được phân, hơi.
– Tái phát trĩ.