HẠ CỰ HƯ
下巨虛穴
S39 Xià jù xū xué
Xuất xứ của Hạ Cự Hư:
«Linh khu – Bản du».
Tên gọi của Hạ Cự Hư:
– “Hạ” có nghĩa là dưới, trái với nghĩa “Thượng” ổ trên “Thượng Cự-hư”. Ở đây nói đến phần dưới của chân.
– “Cự” có nghĩa là lớn, vĩ đại.
– “Hư” có nghĩa là chỗ trống, ý nói đến khoảng cách giữa xương chày và xương mác.
Huyệt nằm ở nơi chỗ hõm của chân dưới, nó cũng là “Hạ hợp huyệt” của kinh Thủ Thái dương Tiểu trương, thưởng biểu hiện sự rối loạn của Tiếu trường. Do đó mà có tên là Hạ Cự-hư (chỗ trống lớn ở dưới).
Tên Hán Việt khác của Hạ Cự Hư:
Túc chi Hạ-liêm, Cự-hư hạ liêm, Hạ liêm.
Huyệt thứ :
39 Thuộc Vị kinh
Đặc biệt của Hạ Cự Hư:
Hạ-hợp huyệt (huyệt hợp dưới) của Túc Dương minh và Tiểu trường.
Mô tả huyệt của Hạ Cự Hư:
1. Vị trí xưa :
Dưới huyệt Thượng liêm 3 thốn (Giáp ất, Đồng nhân, Phát huy, Đai thành)
2. Vị trí nay:
Ngồi ngay vểnh bàn chân xoay ra ngoài đê lộ các khe cơ, xác định huyệt Túc ‘1 am- lý rồi đo xuống 6 thốn. Huyệt nằm trong khe giũa cơ cẳng chân trước và cơ duỗi chung các ngón chán.
3. Giải phẫu, Thần kinh Dưới huyệt:
là cơ duỗi chung các ngón chân và khe giữa cơ cẳng chân trước, ở sâu là bò trong cơ duỗi dài riêng ngón chân cái, khe giữa xương chày và xương mác Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thẩn kinh chày trước. Da vùng huyệt chi phối bổi tiết đoan thần kinh L5.
Tác dụng trị bệnh
1. Tại chỗ, Theo kinh :
Thấp khớp, cước khí, liệt chi dưới.
2. Toàn thân :
Bệnh thuộc trưởng vị, ăn kém, viêm ruột cấp mãn tính, viêm gan cấp mãn tính.
Lâm sàng của Hạ Cự Hư:
1. Kinh nghiệm tiền nhân :
Phối Hợp khê, Thận du trị sườn ngực tức đầy làm cho đau bụng (Đai thanh). Phối Thượng liêm trị tiểu vàng (Tư Phối Lương môn. Thái bạch trị kiết lỵ (Tư sinh) Phối
Huyền chung trị ăn kém do Vị nhiệt (Tư sinh).
2. Kinh nghiệm hiện nay :
Phối Túc Tam-lý, Trung quản trị sinh bụng, đau dạ dày. Phối Thiên khu trị ỉa chảy. Phối Tiếu-trường du trị ỉa lỏng kèm theo thúc ăn. Phối Dương Lăng-tuyền trị đau bụng quanh rốn.
Phương pháp châm cứu
1. Châm Thẳng, sâu 1 – 2 thốn.
2. Cứu 5 – 7 lửa.
3. Ôn cứu 5 – 20 phút.
Tham khảo của Hạ Cự Hư:
1. «Linh khu – Tà khí tạng phủ bệnh hình» ghi rằng: “Bệnh của Tiểu trường làm cho bụng dưới đau, đau thắt lúng làm hai hòn dái cũng bị đau, có khi phải nghiêng ra phía sau mới dễ chịu, có khi trước tai bị nhiệt … như the là bị mạch hảm, ấy là những chứng hậu bệnh của Tiêu trưởng. Bệnh của kinh Thủ Thái dương nên chọn Cự-hư hạ liêm”.
2. «Giáp ất» quyên thứ 8 ghi rằng: “Đau ổ bụng dưới, đại tiện ra lỏng kèm thức ăn, giữa ngón tay thú hai nóng, nếu mạch hãm thì sốt lạnh mình đau, môi khô, không ra mồ hôi, lông khô, teo thịt ít khí, bôn trong có nội nhiệt, không muốn cu động, tiết ra chất mũ máu, đau thắt lưng dẫn tói bụng dưới, sợ sệt, nói bậy nói cuồng, dùng huyệt Cự-hư hạ liêm làm chủ”.
3. «Giáp ất» quyển thứ 12 ghi rằng: “Nhọt vú, hồi hộp, tý chúng, nặng cẳng chân, mu bàn chân không rút lên dược, đau gót chân, dùng Cự hư hạ liêm làm chủ”.
4. «Tư sinh» ghi rằng: “Hạ liêm, Huyền chung, trị vị nhiệt không thích ăn.
5. «Đại thành» quyển thứ 6 ghi rằng: “Hạ Cự-hư chủ về khí Tiểu-trường bất túc, mặt không có nhan sắc, liệt nửa người, liệt bàn thối, chân vệt không mang dép được, thịt róc, thương hàn trong vị có nhiệt, không muốn ăn, tiết mũ máu, hông sườn bụng dưới khống chế tới hòn dái gây đau, có khi phải nghiêng ra sau mới dễ chịu, có khi trước tai bị nhiệt. Nếu hàn quá, nếu chỉ nóng nhiều ỏ trên vai và ngón tay thứ sưng nóng, nói bậy cuồng ngôn, nhọt vú ỏ đàn bà, mu chân.