THANH LÃNH UYÊN
清冷淵穴
TE 11 Qīnglěng yuān xué (Tsing Leng luann).
Xuất xứ của huyệt Thanh Lãnh Uyên:
< < Giáp ất> >.
Tên gọi của huyệt Thanh Lãnh Uyên:
– “Thanh ” có nghĩa là mát, trong sạch.
– “Lãnh” có nghĩa là lạnh.
– “Uyên” có nghĩa là cái vực sâu.
Huyệt chủ yếu dùng trong những biểu hiện bệnh lý ở Tam-tiêu, liên quan sự bí tiểu, tích luỹ hơi nóng. Huyệt có nhiệm vụ đặc hiệu của kinh này để làm hủy hơi nóng để thanh nhiệt và lương huyết. Do đó mà có tên là Thanh-lãnh uyên.
Theo “Hội nguyên” ghi rằng: “Thanh-lãnh uyên, Thanh có nghĩa là xa tránh ô trọc, Lãnh là linh thiêng, Uyên là nguồn nước sâu. Huyệt hàm nghĩa của các nhân tó đó. Linh được kết hộp bỏi cái trong sạch của phần âm, đến thẳng trong vực sâu, giải độc di truyền của tiên thiên, thông với cội nguồn cấu tạo của cơ thể, nên được gọi là Thanh-lãnh uyên”.
Tên Hán Việt khác của huyệt Thanh Lãnh Uyên:
Thanh-lãnh tuyền, Thanh hạo.
Huyệt thứ:
11 Thuộc Tam-tiêu kinh.
Mô tả của huyệt Thanh Lãnh Uyên:
1. VỊ trí xưa:
Trên khuỷu tay 1 thốn, co duỗi tay đê’ điểm huyệt {Giáp ất). Trên khuỷu tay 2 thốn (Giáp ất, Đồng nhân, Phát huy, Đại thành).
2. VỊ trí nay :
Khi điểm huyệt co tay lại, xác định huyệt Thiên tỉnh rồi đo lên 1 thốn.
3. Giải phẫu, thần kinh Dưới của huyệt Thanh Lãnh Uyên:
là gân cơ 3 đầu cánh tay, đầu dưới xương cánh tay – Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh quay. Da vùng huyệt chi phối bổi tiết đoạn thần kinh C7.
Tác dụng trị bệnh của huyệt Thanh Lãnh Uyên:
1. Tại chỗ, theo kinh:
2. Toàn thân:
Lâm sàng của huyệt Thanh Lãnh Uyên:
1. Kinh nghiệm tiền nhân:
Bệnh mắt cần dùng Thanh-lãnh uyên (Thắng ngọc ca).
2. Kinh nghiệm hiện nay:
Phối Thiên tỉnh, Khúc trì, Thiếu hải trị đau lạnh, ở khớp khuỷu. Phối Thái dương trị đau đầu.
Phương pháp châm cứu:
1. Châm Thẳng, sâu 1 – 1,5 thốn.
2. Cứu 3 lửa.
3. Ôn cứu 5-10 phút.
Tham khảo của huyệt Thanh Lãnh Uyên:
1. «Giáp ất» quyển thú 7 ghi rằng: “Đau đầu, phát run, dùng Thanh-lãnh uyên làm chủ”.
2. «Giáp ất» quyển thứ 10 ghi rằng: “Vai không thể cử được lên được, không mặc được áo, dùng Thanh-lãnh uyên làm chủ”.
3. «Thiên kim» quyển thứ 30 ghi rằng: “Thanh-lãnh uyên, Dương cốc chủ trị vai không nâng lên được, không mặt được áo, có thể cứu 3 lửa, châm sâu 3 phân”.
4. «Thiên kim>> ghi rằng: “Thanh-lãnh uyên ở trên khớp khuỷu 3 thốn, duỗi khuỷu tay nâng cánh tay để điểm huyệt”. Theo “Giáp ất” lại ghi: “Thanh-lãnh uyên ở trên khuỷu tay 1 thốn”. Hiện nay có sách căn cứ theo “Ngoại đài”, “Đồng nhân”, “Thánh tế”, “Tư sinh” cải dùng thành 2 thốn.