MẠCH HOÃN CHỦ BỆNH

緩脈主病

MẠCH HOÃN CHỦ BỆNH
MẠCH HOÃN CHỦ BỆNH

Phiên âm:

Hoãn đại giả phong, Hoãn tế giả thấp. Hoãn sáp huyết thiểu, Hoãn hoat nội nhiệt. Nhuyễn tiểu âm hư, Nhược tiếu duơng kiệt. Dương kiệt ố hàn, Âm hư phát nhiệt. Dương vi ố hàn. Âm vi phát nhiệt. Nam vi hư tốn, Nữ vi tả huyết. Dương động hãn xuất, Âm động phát nhiệt. Vi thống dữ kinh, Băng trung thất huyết. Hư hàn tương bác, Kỳ danh vị cách. Nam tử thât tinh. Nữ tử thất huyết.

Dịch nghĩa:

MẠCH HOÃN CHỦ BỆNH
MẠCH HOÃN CHỦ BỆNH

Hoãn đại là phong, Hoãn tế là thấp. Hoãn sáp thiếu máu, Hoãn hoạt nóng trong. Nhuyễn tiểu âm hư, Nhược tiểu dương kiệt. Dương kiệt ố hàn, Âm hư phát nhiệt. Dương vi sợ lạnh, Âm vi phát nhiệt. Nam vi hư tổn, Nữ vi băng huyết. Dương động mồ hôi (ra), Ầm động phát nhiệt. Gây đau và sợ, Băng lậu mất máu. Hư hàn giao tranh Gọi là mạch cách. Đàn ông mất tinh, Đàn bà mẩt máu.

Dịch theo lời giải:

MẠCH HOÃN CHỦ BỆNH
MẠCH HOÃN CHỦ BỆNH

Đoạn này nói về chứng bệnh chủ yếu của sáu mạch khác nhau: Hoãn, nhuyễn, nhược, vi, động, cách. Mạch đập hòa hoãn, vốn là mạch tượng bình thường có “vị khi”, nhưng nếu hoãn mà thiên về đại thì phần nhiêu thấy ở chứng bệnh phong nhiệt. Hoãn mà thiên về tế thì phần nhiêu thấy ở chứng bệnh hàn thấp. Hoãn mà kiêm sáp, thường là mạch tượng của dinh huyết hư nhược Hoãn mà kiêm hoạt, thường là mạch tượng của chứng nóng trong bốc mạnh. Cũng là mạch tế tiểu, song còn có sự phân biệt giữa nhuyễn với nhược. Nhuyễn mà tế tiếu như bó là âm huyết hư tôn. Nhược mà tế tiếu là dương khi suy kiệt.

 

Dương suy thì khí không đầy đủ ở toàn thân, rất dễ xuất hiện triệu chứng thường ố hàn sợ lạnh. Âm hư thì không điêu hòa được dương, cho nên thường thấy triệu chứng phát nhiệt (sốt nóng). Cả khí lẫn huyết đều hư, thường dễ thấy mạch vi, song cũng có những điểm khác nhau. Bộ thốn thuộc dương, nếu mạch thốn vi thì đó lá dương hư, mà dương hư thì ố hàn. Bộ xích thuộc âm, nếu mạch xích Vi thì đó là âm hư, mà âm hư thì phát nhiệt. Đàn ông mạch đập vi tế, phân nhiều thấy ở bệnh biến hư nhược lao tổn.

 

Đan bà mạch đập vi tế là tức bị băng huyết, rong huyết. Giả sử khi dương khí uất, kết ở phần huyết là mà không phát tiết được thi sẽ xuất hiện chỉ loại mạch “động”, mô hôi ra không ngớt, mạch bộ thốn thấy “dộng”, đây gọi là ‘”dương dộng”. Nếu phát nhiệt không ngớt, mạch bộ xích thấy “động”, đây gọi là “âm động”. Những chứng khác như đau nhức sợ hãi, băng huyết, đại tiện ra huyết thi mạch bộ quan của hai tay phần nhiều thấy “động”. Sợ hãi, thì tim đập nhanh, hôi hộp không yên. Thực ra là thế chất hư hàn, đông thời lại bị âm tà nhiễu động ở trong (nội động) thì sẽ xuất hiên mạch cách. Nếu trong khi đàn ông thiếu tinh nghiêm trọng, đàn bà bi băng huyết, rong hụyết. Đêu có thế thấy loại mạch cách nàv do khi huyết hư tổn song lại bị hàn tà xâm tập hư hàn cùng giao tranh mà gây bệnh.

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.