Mạch Trầm 沉脉
Phiên Âm:
Trầm Mạch chủ lý, chủ hàn, chủ tích. Hữu lực đàm thực, vô lực khí uất. Trầm Trì hư hàn, Trầm Sác nhiệt phục. Trầm Khẩn lãnh thống, Trầm Hoãn thủy súc. Trầm Lao cố lãnh, Trầm thực nhiệt cực. Trầm nhược âm hư, Trầm Tế tý thấp. Trầm Huyền ẩm thống, Trầm Hoạt súc thực. Trầm Phục thổ lợi, âm độc tụ tích. Trầm nhược là âm hư, Trầm Tế là thấp tý.
Dịch nghĩa:
Mạch Trầm chủ về lý, chủ hàn, chủ tích. Trầm hữu lực là Đàm thực, Vô lực là khí uất. Trầm Trì là hư hàn, Trầm Sác là nhiệt phục. Trầm khần là lạnh đau, Trầm Hoãn là súc thủy. Trầm Lao là cố lãnh. Trầm thực cực nhiệt, Trầm huyền là ẩm thống(ăn uống vào đau tăng). Trầm Hoạt lả Súc thực(thức ăn tích ở trong). Trầm Phục là Thổ lợi ( nôn mửa, ỉa chảy) là âm đọc tích tụ ở trong.
Dịch Theo Lời Giải:
Đoạn này nói về các bệnh thuộc mạch trầm khác nhau. Xuất hiện cúa mạch trầm thường thấy nhất có ba tình huống :
-Chứng lý nội thương. Chứng lý là phàm những bệnh biến thuộc trong tạng phủ mà không có ngoại cảm thì đêu thuộc vê phạm vi của chứng lý.
-Tà khi âm hàn.
-Các loại tích tụ. Tà khí đình tụ cố định ở một bộ vị nào đó thì gọi là tích, gây bệnh gây đau có giờ, điểm đau di động, thi gọi là tụ (xin xem mục “Tạp bệnh mạch tượng” thư 14 ồ phân sau)Khi xem mạch trâm, trước hết phải phân biệt rõ nhịp đập của mạch có lực hay vô lực. Trầm mà có lực, phần nhiêu là bệnh biến của đàm âm và thương thực. Trầm mà vô lực, nói chung phân nhiêu do khi cơ uất trệ gây nên. Mạch đập trầm trì, phân nhiều là hư hàn gây bệnh mạch đập trầm sác, thường là nhiệt tà uẩn phục ở trong. Trâm mà kiêm khấn, phân nhiêu do hàn tà ngưng tu và đau Lạnh Trầm mà kiêm hoãn, phần nhiêu do thủy khí (tức tà khi hàn thủy) dồn chứa lại. Nếu bị bệnh lạnh kéo dài, trong mạch trâm phân nhiêu kèm theo hiện tượng của mạch lao (lao đây không phải là ho lao mà là chữ lao là kiên cố – một trong 27 mạch nói ờ trong sách này). Nên nhiệt ở lý cực thịnh, trong mạch trâm phân nhiêu kèm theo hiện tượng của mạch thực.
Âm tinh hư tổn mạch đập trầm nhược. Thấp tà gây tê (đình trệ không thông), mạch dập trâm tế. Tê là tý, là một trong những bệnh danh, chủ yếu là do ba loại bệnh tà phong, hàn, thấp gây nên tê – tý. Các khớp đau có tính di động, mô hồi ra nhiêu gọi là phong tý. Các khớp đau có tính cô’ định gọi la hàn tý. Chân tay, các khớp nặng nề hoăc thậm chí tê dại không biết đau gọi là thấp tý. Cái gọi là tý thấp ở dãy cũng chính là bệnh thấp tý. Mạch trâm huỳên thường thấy ở chứng đau do đàm ẩm gây bệnh. Mạch trầm hoạt thường thấy ở chứng tích do ăn uống lâu ngày không tiêu (túc thực) gây bênh. Vi dụ mạch đập trầm phục, phần nhiều thấy ở lúc âm độc, và tích tụ không tiêu gây nôn mửa ỉa chảy (thố tả) dữ dội.