Phương pháp chế tạo dụng cụ
Những vật liệu thường dùng là nẹp, bao vải bọc nẹp, mành, đệm , dây buộc, bông, băng keo, dụng cụ kéo, bản kim loại, quang cao su…
Nẹp
Nẹp là một dụng cụ quan trọng dùng cố định xương gãy theo phương pháp YHCT.
Nguyên liệu: nẹp có thể làm từ nhiều loại vật liệu khác nhau như gỗ, vỏ cây, bìa cứng, mo cau…và thông dụng nhất là làm bằng tre hoặc cây họ tre.
Tiêu chuẩn kỹ thuật:
Nẹp phải có đủ độ rắn làm giá đỡ cho xương gãy, lại cần có độ dẻo và độ đàn hồi nhất định, thích hợp cho áp lực nội bộ vùng bó khi co cơ tập luyện sinh ra.
Hình dáng thích hợp nơi vùng bó.
Kích thước dài, rộng tương ứng theo yêu cầu cố định, sao cho sau khi bó khe giữa các nẹp khoảng 1cm.
Được bọc hoặc đệm êm tránh thương tổn do chèn ép lên da.
Phương pháp chế tạo: tuỳ loại nguyên vật liệu khác nhau mà có phương pháp chế tạo khác nhau. ở Việt Nam, nẹp chủ yếu được chế từ nẹp tre.
Chọn tre: tre tốt là loại tre bánh tẻ (tre không già quá, cũng không non quá), tuổi tre khoảng 1,5-2năm, ngoài vỏ còn màu xanh, các cành ngang (thường gọi là tay tre) phần gần gốc đã trưởng thành, không còn tay tre nào dưới dạng măng, vỏ thân cây có bọc lớp phấn ngà, các đốt tre dài đủ chiều dài của nẹp định làm.
Khi tre quá già, lá vàng úa, thân tre chuyển vàng, ngoài phủ phấn như bùn đất là loại tre cứng, chắc, nhưng khó định hình sau uốn.
Chú ý: không dùng tre cụt ngọn (tre bị gió bão làm gãy ngọn khi đang còn là cây măng). Loại tre này chất mềm, giòn, uốn dễ gãy và tính đàn hồi kém.
Cách làm: chẻ tre thành phiến mỏng độ 4 – 5mm, bản rộng 3-5cm.
Cho tre vào đun sôi trong nước muối loãng 10 – 15 phút để trừ mối mọt rồi đưa ra hơ nóng, nước trong nẹp sôi xèo xèo rồi hết sôi, phiến tre trở nên tương đối dẻo là có thể cho vào khuôn hoặc uốn thủ công theo hình dáng yêu cầu. Sau khi uốn xong, nhúng phần đã uốn vào cồn 70-90% hoặc dung môi hữu cơ (có thể dùng dấm) để định hình.
Mành
Được làm từ các nan tre, nứa. Nan có bề rộng từ 5- 10mm, dày khoảng 1mm được liên kết với nhau bằng lạt giang. Đến sau này Nguyễn Quang Long cải tiến cho vào túi vải quấn vào nơi cần cố định.
Đệm
Đệm cố định cũng là một thành phần quan trọng cùng với nẹp trong cố định xương gãy. Mục đích chính của đệm là phòng di lệch thứ phát và phần nào đó giúp cho sự chỉnh phục thêm hoàn thiện.
Nguyên liệu: đệm thường được làm bằng giấy bản gấp xếp nhiều lần.
Tiêu chuẩn kỹ thuật:
Êm, hút ẩm và không kích thích da.
Hình dáng kích thước phù hợp nơi vùng đệm: đệm cố định to, nhỏ, dày, mỏng, hình dáng… đều nhằm tác dụng lực nơi vùng đệm. Đệm quá bé hoặc quá nhỏ đều ảnh hưởng không tốt cho việc ổn định các đoạn xương gãy. Có thể phân làm nhiều loại đệm và ứng dụng khác nhau.
Các loại đệm
Đệm phẳng: hình vuông hoặc hình chữ nhật là loại đệm hay sử dụng nhất, (độ rộng nhỏ hơn nẹp và phụ thuộc nơi tiếp xúc;độ dài, căn cứ độ dài của chi gãy và nơi đệm, đệm có thể dài khoảng 5-15cm; độ dày căn cứ vào độ dày và mạnh yếu của tổ chức phần mềm nơi đệm mà định, thông thường đệm dày khoảng 1,5-4cm). Tổ chức phần mềm mỏng, nhão thì dùng đệm tương đối mỏng; tổ chức phần mềm dày thì dùng đệm có kích thước dày.
ứng dụng: căn cứ vào hình dáng xương gãy, tình hình di lệch, nguyên lý cơ lực học để đặt đệm cho phù hợp. Thường dùng phương pháp: dùng 2 đệm, 3 đệm và 4 đệm.
Dùng 2 đệm: thích dụng cho xương gãy có di lệch bên. Sau khi nắn chỉnh, mỗi đệm được đặt phía đối lập của mỗi đoạn gãy (hình 7.10).
Dùng 3 đệm: thích dụng trong trường hợp xương gãy di lệch gấp góc. Sau khi nắn chỉnh, 1 đệm đặt vào nơi đỉnh góc; 2 đệm còn lại đặt hai đầu xương gãy, đối diện với đệm thứ nhất. Ba đệm hình thành đối lực phòng xương gãy tái di
Dùng 4 đệm: thích dụng trong trường hợp xương gãy vừa có di lệch gấp góc, vừa có di lệch bên – bên. Sau khi xương gãy được nắn chỉnh, tuỳ tình hình di lệch của xương gãy mà sử dụng kết hợp phương pháp dùng hai đệm, ba đệm (hình 7.12).
Đệm tách xương: thường dùng trong trường hợp gãy hai xương cẳng tay, gãy xương bàn tay hoặc bàn chân. Sau khi nắn chỉnh, dùng bông hay giấy bản quấn tròn thành đệm hình đũa đường kính 1-1,5cm, dài 610cm làm đệm tách hai xương đề phòng giữa các xương (ví dụ xương quay và xương trụ) không có khoảng cách thích hợp làm ảnh hưởng đến cơ năng của nơi gãy. Khi đặt đệm cần đề phòng sự chèn ép làm tổn
Đệm hợp cốt: thích dụng trong trường hợp gãy mỏm khuỷu và gãy lồi cầu trong xương cánh tay. Sau khi nắn chỉnh, dùng đệm phẳng, cắt khuyết hình bán nguyệt đặt lên mảnh gãy phòng di lệch thứ phát (hình 7.14).
Đệm trống tâm: dùng trong gãy lồi cầu trong, ngoài hoặc vỡ mâm chày, mắt cá chân. Sau khi xương gãy được nắn chỉnh, phần trống tâm đệm sẽ được đặt lên phần lồi của lối cầu hay mắt cá chân… đề phòng sự chèn ép cục bộ trên phần lồi lên của xương gãy (hình 7.15).
Đệm nghiêng hay đệm bậc thang: dùng đệm gần khớp, nơi phình to của đoạn hành xương. Đệm hình nghiêng giúp cho đệm phù hợp khuôn chi nơi cần đệm (hình 7.16).
Đệm hình lồi:ứng dụng đệm các đầu nẹp. Căn cứ đầu nẹp và cục bộ nơi tiếp xúc mà dùng đệm hình lồi một cách phù hợp (hình 7.17).
Đệm đầu lớn: ứng dụng trong trường hợp gãy lồi cầu ngoài mà mảnh gãy tách ra. Đệm đầu lớn được đặt trùm lên lồi cầu, còn bên đối diện đặt hai đệm bậc thang (hình 7.18).
Băng keo
Làm bằng vải phết nhựa duối hoặc ngày nay dùng băng dính. Đối với gãy xương có cơ lớn như xương đùi, băng keo dính da được kéo liên tục kết hợp với bó nẹp.
Vòng dây
Được sử dụng khi gãy vỡ xương bánh chè, vòng dây được đặt ôm lấy xương bánh chè và dùng dây nịt cố định ra sau.
Băng vải
Được dùng làm băng quấn cố định hoặc làm dây buộc.
Phương pháp cố định(hình 7.21) ổ gãy được bất động tương đối, hai khớp trên và dưới ổ gãy được giải phóng hoàn toàn hoặc bị bất động một phần (gãy gần khớp).
hình Phương pháp cố định
Những điểm cần chú ý sau cố định nẹp cục bộ
Gác cao chi gãy
Phương pháp này có tác dụng làm giảm sưng nề. Có thể dùng chăn, đệm, khung… để làm giá đỡ.
Quan sát theo dõi
Sau nắn chỉnh, cố định, cần theo dõi chặt chẽ 1- 4 ngày về mạch, màu sắc, độ ấm, cảm giác, mức độ sưng nề và vận động tự chủ của phần chi thuộc ngoại vi vùng bó. Nếu phát hiện tuần hoàn ứ trệ, cần chú ý theo dõi và điều chỉnh độ chặt dây buộc, tránh các biến chứng rối loạn dinh dưỡng do thiếu máu nuôi.
Chú ý có những điểm đau do cố định gây nên
Nếu trong nẹp tại vùng chi bó có điểm đau chói (có thể do đệm, có thể do các đầu nẹp gây nên) cần kịp thời tháo nẹp kiểm tra đề phòng biến chứng loét, hoại tử, nhiễm trùng…
Thường xuyên chú ý điều chỉnh độ chặt của dây buộc
Khi chi gãy giảm sưng, sẽ phát sinh hiện tượng lỏng nẹp, do vậy hàng ngày cần phải kiểm tra độ chặt dây buộc để kịp thời điều chỉnh tăng lên.
Theo dõi đoạn xương gãy di lệch thứ phát
Xương gãy sau khi nắn chỉnh, cố định cần định kỳ kiểm tra tình hình di lệch thứ phát của các đoạn xương trong khoảng hai tuần đầu. Nếu có di lệch thứ phát cần xem xét lại độ chặt của dây buộc và vị trí các nẹp để tìm nguyên nhân di lệch, nếu quá mức cho phép mới cần phải nắn chỉnh lại.
Hướng dẫn người bệnh tiến hành tập luyện(xem mục tập luyện công năng)
Xử lý những biến cố sau khi bó nẹp
Tuần hoàn ứ trệ
Thường do buộc chặt quá hoặc sưng nề trong giai đoạn cường viêm, chi thể tím lạnh, đau buốt. Cần nới lỏng nẹp, treo gác chi cao và theo dõi chặt chẽ.
Loét do chèn ép
Chữa nguyên nhân gây chén ép, xử lý nhiễm trùng. Nhìn chung nếu kiểm tra đúng chế độ và tiến độ thì hiếm gặp loại biến chứng này.
Theo dõi thương tổn kinh lạc
Bó nẹp có thể gây tổn thương kinh lạc như liệt, rối loạn cảm giác…
Trong trường hợp nghi dây thần kinh bị đứt hoặc bị chèn ép nặng, cần can thiệp bằng phẫu thuật.
Thời gian bó nẹp
Tuỳ từng loại gãy, thời gian cố định có khác nhau. YHCT thường căn cứ khi trên lâm sàng có dấu hiệu liền xương. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình liền xương bình thường như vị trí gãy, tuổi tác…
Tiêu chuẩn liền xương
Tiêu chuẩn tháo nẹp
Tại chỗ ấn không còn đau.
Cử động chi gãy về mọi hướng không đau.
Hết cử động bất thường.
Trong điều kiện ngày nay X quang cho phép khẳng định liền xương bởi hình ảnh can xương.
Tiêu chuẩn liền xương thực sự (kết hợp YHHĐ) ư Có đầy đủ tiêu chuẩn liền xương trên lâm sàng.
X quang mất đường gãy.
Liền xương thực sự nhanh nhất 6 tháng sau gãy. Trẻ sơ sinh có thể sớm hơn.