Viêm dạ dày-ruột do virus là một nguyên nhân có thể nhận thấy phổ biến nhất gây ra bệnh ỉa chảy cấp tính ở trẻ em ở Mỹ, với rotavirus là tác nhân gây bệnh thường gặp nhất ở trẻ nhỏ. Hàng năm dịch do rotavirus bắt đầu ở Mexico vào cuối mùa thu và tiến triển một cách có hệ thống qua lục địa tới vùng Đông Bắc vào mùa xuân. Những vụ bùng phát ở bệnh viện và khu chăm sóc ban ngày là phổ biến. Mặc dù tình trạng nhiễm rotavirus thường xảy ra nhất ở trẻ em từ 6 tháng đến 2 tuổi, nhưng tất cả các lứa tuổi đều bị ảnh hưởng, có cả 1/3 số bố mẹ có con bị nhiễm.

Virus này làm phân giải các tế bào thành ruột của lớp nhung mao hỗng tràng trên, gây ra tình trạng không dung nạp lactose thứ phát kéo dài tới 3 tuần. Với hầu hết các nguyên nhân của viêm dạ dày – ruột do virus dẫn đến tình trạng ỉa chảy, phân thường lỏng như nước, không có máu; và sốt, nếu có thì nhẹ. Ba ngày bị nôn thường có trước hoặc xuất hiện cùng với thời gian 3 đến 10 ngày bị ỉa chảy, có thể dẫn đến tình trạng mất nước cần phải chú ý. Sốt và đau bụng cũng có thể xảy ra.

Virus Norwalk gây ra sự bùng nổ dịch ở cộng đồng và phổ biến ở trẻ em tuổi đi học, trẻ lớn và người lớn. Các triệu chứng kéo dài 12 đến 60 giờ với biểu hiện buồn nôn (triệu chứng chính), nôn, và ỉa chảy có sau ở một nửa số trẻ em có sốt, cảm giác ớn lạnh, đau đầu, đau cơ, và khó chịu. Các nhiễm trùng do adenovirus typ 40 và 41 gặp cao nhất ở trẻ em dưới 2 tuổi và gây ra tình trạng bệnh giống nhiễm rotavirus 5 đến 12 ngày với biểu hiện ỉa chảy là chính. Astrovirus và các calicivirus ngoại trừ virus Norwalk đôi khi gây ra ra tình trạng bệnh giống nhiễm rotavirus nhẹ hơn. Các triệu chứng hô hấp thường kết hợp với các virus gây ra viêm dạ dày – ruột, nhưng thường là trùng hợp ngẫu nhiên.

Chẩn đoán

Không có xét nghiệm chẩn đoán đặc hiệu nào được chỉ định cho những trường hợp trẻ bé và trẻ em có những triệu chứng nhẹ và các dấu hiệu về thực thể và tiền sử đúng với một trong những hội chứng virus ở trên.

Các yếu tố tiền sử chắc chắn (thí dụ: du lịch, phơi nhiễm, hoặc thuốc) gợi ý những tình trạng bệnh căn không do virus khác, ỉa chảy có máu gợi ý có vi khuẩn đường ruột xâm nhập, E.coli 0157:H7 tiến triển, viêm đại tràng màng giả (Entamoeba), hoặc thậm chí bệnh Crohn ở tuổi vị thành niên. Nuôi cấy phân nên dành riêng làm cho những bệnh nhân có tiền sử nhiễm vi khuẩn, sốt cao, có máu hoặc nhầy trong phân, hoặc có tế bào bạch cầu trong phân. Làm các xét nghiệm trứng và ký sinh trùng, gồm cả Cryptosporidium và Cyclospora nếu có bằng chứng tiền sử hoặc bị ỉa chảy kéo dài. Các xét nghiệm nhanh có giá trị đối với Giardia và Cryptosporidium.

Chẩn đoán virus nhanh bằng các bộ phát hiện kháng nguyên tiện lợi có giá trị đối với rotavirus và adenovirus. Các xét nghiệm huyết thanh liên kết cặp và phát hiện kháng nguyên đang có cũng có thể được dùng cho các virus khác. Các xét nghiệm virus có lẽ là có lợi nhất cho việc khẳng định bệnh căn sớm trong vụ dịch, cho những trường hợp nặng, và cho bệnh có nghi ngờ xuất hiện ở những tuổi và các mùa không thường gặp.

Ngoài những đầu mới chẩn đoán, khám thực thể tập trung vào việc ước đoán tình trạng mất nước và huyết động (ẩm màng nhầy, nước mắt, trạng thái căng da, thời gian căng đầy lại mao mạch) và những thay đổi của thóp, khi tư thế đứng, hoặc về trạng thái tinh thần. Những trẻ em mất nước nặng, nhất là ở trẻ bé, cùng với các trường hợp ốm nặng hoặc có các bất thường về chất điện giải nên được nằm viện.

Xử trí

Bù nước bằng đường uống là biện pháp chính trong điều trị ngoại trú đối với ỉa chảy do virus, và tình trạng nôn không phải là chống chỉ định (dùng thường xuyên, lượng nhỏ). Những trẻ bú sữa mẹ vẫn tiếp tục được cho bú và bổ sung thêm các dung dịch bù nước bằng đường uống. Bù nước bằng các chất lỏng trong như các đồ uống mềm, nước keo gelatin, và nước trái táo không được khuyên dùng do trong những chất lỏng này có lượng carbohydrat cao, nồng độ thẩm thấu cao và thành phần điện giải thấp. Tuy nhiên, có thể cần pha loãng khối lượng nhỏ các dịch này thành những dung dịch phù hợp, vì vậy những trẻ lớn hơn có thể nhận được dung dịch bù nước, cần phải tránh các loại nước có caffeine, nước thường, và dùng quá nhiều xúp (chứa lượng muối cao).

Ngoài những biện pháp này, như đã đề cập ở chỗ khác thì sự tranh luận đáng quan tâm vẫn còn đánh giá về các dung dịch bù nước và chế độ ăn tối ưu. Dung dịch bù nước bằng đường uống của Tổ chức Y tế Thế giới (The World Health Organization oral rehydration solution -WHO-ORS) (90 mEq natri, 20 g carbohydrat; 310 mosm/L) là dung dịch được ưa dùng đầu tiên trên khắp thế giới, đặc biệt đối với mất nước trung bình (hoặc nặng); nhưng một dung dịch tiện lợi với 75 mEq natri, 25 g carbohydrat, và 305 mosmol/L (Rehydralyte) được chấp nhận nhiều hơn ở Mỹ. Một thử nghiệm mù đôi cho thấy rằng dung dịch có 75 mEq natri, 13,5 g carbohydrat; 245 mosm/L tốt hơn WHO-ORS trong kỳ bồi phụ nước đầu tiên. Sau kỳ bồi phụ nước đầu tiên (4-24 giờ) hoặc nếu chỉ có tình trạng mất nước nhẹ , thì bất cứ dung dịch tiện lợi nào có 40 đến 60 mEq natri trong một lít (thí dụ: Pedialyte, Infalyte) đều có thể dùng được, cùng với việc cho ăn lại sớm các thức ăn thông thường của trẻ hoặc sữa và bột (nếu tuổi thích hợp).

Ưu điểm của các dung dịch bù nước dựa vào chất ngọt của gạo hoặc ngũ cốc (thí dụ: Infalyte) hơn các dung dịch dựa vào glucose vẫn đang còn tranh luận. Một số các chuyên gia chọn các loại thức ăn cho trẻ không có lactose cho 2 đến 3 tuần đầu tiên, trong khi đó một số khác chỉ tán thành cách này nếu khi bắt đầu cho ăn lại sữa hoặc các thức ăn thường lệ của trẻ lại làm trầm trọng thêm tình trạng ỉa chảy. Những đồ ăn đặc cho trẻ sau khi bị ỉa chảy ở trẻ em nên có ít chất béo và các đường đơn (thí dụ: bánh mỳ, ngũ cốc, sữa chua, và trái cây tươi). Những thuốc chống ỉa chảy đặc hiệu thường không được chỉ định. Việc sử dụng chế phẩm Lactobacillus casei đường uống và các globulin miễn dịch uống cho những trẻ em nằm viện đang được điều tra nghiên cứu (38-40).

Đa số các tác nhân của viêm dạ dày-ruột do virus được lan truyền qua đường phân – miệng (và có thể qua đường hô hấp). Nước bị nhiễm bẩn và các đồ dùng truyền bệnh có thể có vai trò quan trọng. Dự phòng liên quan đến vệ sinh sạch sẽ, lời khuyên hợp lý cho du lịch (chú ý trong dùng nước hoặc thực phẩm), nấu chín các loại tôm cua sò, và rửa tay kỹ. Vaccin rotavirus đang được phát triển.

Bài trướcBệnh Kawasaki (hội chứng hạch bạch huyết da – niêm mạc) ở trẻ
Bài tiếp theoBiểu hiện, chẩn đoán nhiễm Giun Kim ở trẻ nhỏ và điều trị

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.