KHÁM PHẦN TIÊU HOÁ TRÊN VÀ DƯỚI
Khám môi:
Bình thường: Môi màu hồng cân xứng với các bộ phận khác.
Bệnh lý:
Màu sắc: môi tím trong suy tim, suy hô hấp (hen, giãn phế nang…). Môi nhợt trong bệnh thiếu máu.
Khối lượng: môi to ra trong bệnh to các viễn cực: nổi u cục cứng hoặc sùi trong các bệnh u lành hoặc ác tính.
Những tổn thương khác o mụn phỏng nhỏ mọng nước ở hai mép: chốc mép: nứt kẽ mép giống hình chân ngỗng: giang mai bẩm sinh. Môi trên tách đôi bẩm sinh.
Khám hố miệng:
Cách khám: người bệnh há miệng, ùng đèn pin hoặc đèn chiếu để chiếu sáng nếu không bảo người bệnh quay ra phía sáng, ta ùng đè lưỡi để khám thành bên, hai bên và nền miệng, chú ý lỗ ống Stenon ( ở mặt trong má cạnh răng hàm trên số 6 – 7).
Bình thường: niêm mạc hố màu hồng, nhẵn hơi ướt.
Bệnh lý, ta có thể thấy.
Màu sắc: có mảng đen trong bệnh Adison: có những chấm xuất huyết, bệnh chảy máu.
Những vết loét, ổ loét: trong các bệnh nhiễm khuẩn, bạch cầu cấp: cam tẩu mã: vết loét phát triển rất nhanh, màu đen và rất thối, loét do thiếu Vitamin A, C hay PP.
Những mụn mọng nước: do các bệnh nhiểm khuẩn toàn thân.
Những khối u: U nang của tuyến nước bọt: những dị dạng bẩm sinh: vòm miệng tách đôi.
Hạt Koplik: màu đỏ ở giữa hơi xanh hoặc trắng, to bằng đầu ghim, ở mặt trong má, gặp trong bệnh sởi.
Lỗ ống Stenon đỏ và sưng trong bệnh quai bị.
Khám lưỡi.
Xem lưỡi về các phương iện màu sắc, niêm mạc, gai lưỡi và hình thể.
Bình thường: lưỡi màu hồng, hơi ướt, các gai lưỡi rõ.
Bệnh lý ta có thể thấy:
Màu sắc và tình trạng niêm mạc:
Trắng bẩn hoặc đỏ và khô trong những bệnh nhiễm khuẩn.
Đen trong các bệnh Adisson thiếu Vitamin PP, urê máu cao.
Vàng (nhất là mặt dưới lưỡi) trong những bệnh gây vàng da.
Nhợt nhạt, mất gai trong thiếu máu.
Bóng đỏ, mất gai và đau trong thiếu máu hồng cầu to Biermer (viêm lưỡi kiểu Hunter).
Loét và nứt kẽ lưỡi: đặc biệt loét ở phanh dưới lưỡi, gặp trong bệnh ho gà.
Những mảng trắng dày và cứng: tình trạng tiền ung thư của lưỡi.
Khối lượng:
To đều trong bệnh to các viễn cực, bệnh suy giáp trạng.
Teo một bên lưỡi do liệt dây thần kinh dưới lưỡi.
Các khối u bất thường của lưỡi (lành tính và ác tính).
Khám lợi và răng:
Lợi:
Bình thường lợi màu hồng, bông ướt, và bám vào chân răng, giống như niêm mạc ở miệng.
Bệnh lý:
Có mảng đen trong bệnh Adisson.
Loét trong nhiễm độc mạn tính chì, thuỷ ngân, thiếu Vitamin C, A, PP loét có thể chảy máu trong thiếu Vitamin C.
Chảy mủ chân răng: ùng đè lưỡi ấn vào chân răng, mủ sẽ chảy ra mủ chân răng có thể đọng thành những túi nằm sâu giữa lợi và răng.
Lợi sưng to: do viêm có mủ: khối u của lợi, răng hoặc xương hàm.
Răng: Khi khám chú ý về số lượng, hình thái và tổn thương của răng.
Bình thường số lượng của răng phụ thuộc vào tuổi:
Sáu tháng mọc từ hai đến bốn răng.
Từ 2 đến 5 tuổi có 20 răng sữa.
Từ 11 tuổi thay toàn bộ răng sữa.
Từ 12 đến 18 tuổi có 28 răng.
Từ 18 tuổi trở lên có 32 răng.
Về hình thái răng mọc đều đặn: men trắng bóng và không đau khi nhai và khi gõ.
Bệnh lý: các bệnh về răng có nhiều liên quan đến bệnh của bộ máy tiêu hoá và toàn thân.
Răng mọc chậm, không đủ số lượng, trong bệnh còi xương.
Răng rụng nhiều và dễ dàng, trong bệnh đái tháo đường.
Sâu răng: Răng có vết đen và đau…
Răng Hutchinson trong giang mai bẩm sinh: hai răng cửa trên chệch hướng, bờ lõm hình bán nguyệt, bờ dưới hẹp (hình đanh vít).
Khám họng:
Họng là ngã ba đường giữa hô hấp và tiêu hoá, thông với tai qua vòi Eustache. Khi họng có tổn thương bệnh lý có thể ãnh hưởng đến nuốt thở và nghe.
Cách khám họng: người bệnh há miệng, chiếu sáng họng bằng đen pin hay đèn chiếu, dùng đè lưỡi nhẹ nhành ấn lưỡi xuống, ta quan sát hình thái niêm mạc của họng.
Bình thường:(hình 59) phần trên là lưỡi gà và màn hầu. Hai bên là tuyến hạnh nhân nằm giữa hai cột trước và sau. Phía sau là thành sau họng.
Lưỡi gà và màn hầu sẽ kéo lên bịt phần sau của mũi khi ta nuốt. Tuyến hạnh nhân bình thường nhỏ nhắn nắm nấp sua các cột. Nói chung niêm mạc của hầu cũng đỏ hồng, ướt và nhẵn.
Bệnh lý:
Màn hầu bị liệt một hay hai bên, khi nuốt không k o lên được và gây sặc lên mũi ( ấu hiệu vén màn).
Lưởi gà bị tách đôi trong ị dạng bẩm sinh.
tuyến hạnh nhân sưng to, có ạng hốc, có mủ,giả mạc khi bị viêm cấp và mạn tính.
Thành sau của họng có thể loét, có mủ, khối u, giả mạc.
muốc quan sát phần trên của vòm họng và tố của vòi Eutache, cần phải ùng gương và đèn chiếu,ta có thể thấy sùi vòm họng (VA) ở phần trên cuảa vòm họng và những tổn thương của lỗ vòi Eustache.
Khám thực quản. Thực quản là nội tạng nằm ở trong sâu không thể khám lâm sàng trực tiếp được. Cho nên ngoài việc hỏi những dấu hiệu chức năng như nuốt đau, nuốt khó, trớ… có tính chất gợi ý, cần phải sử dụng các phương pháp cận lâm sàng như: soi thực quản và chụp thực quản có thuốc cản quang để chẩn đoán những bệnh về thực quản.
Khám hậu môn và trực tràng. Những tổn thương ở hậu môn và trực tràng thường thấy những dấu hiệu chức năng như đau rát ở hậu môn khi đại tiện, đại tiện khó, mót rặn, đại tiện ra máu ra mũi.
Khám hậu môn:
Tư thế người bệnh: Nằm phủ phục, hai chân quz hơi ạng, mông cao đầu thấp, vai thấp, mặc quần thủng đít, hay tụt quần qua đùi. Thầy thuốc đứng đối diện quan sát, dùng tay banh các nếp nhăn của hậu môn và bảo người bệnh rặn để giãn cơ vòng, quan sát phần niêm mạc bên trong.
Bình thường: phần dạ của hậu môn nhẵn, các vết nhăn mềm và đều đặn, niêm mạc bên trong hồng và ướt.
Bệnh lý: ta thấy có thể:
giữa các nếp nhăn có lỗ rò: lỗ rò thường rất nhỏ, phải quan sát kỹ mới thấy, nếu nặn có thể chảy ra mủ. Hoặc có thể thấy các vết xước giữa các nếp nhăn, có khi thấy giun kim.
Trĩ ngoại: ta thấy tĩnh mạch nổi to và ngoằn ngoèo có khi thành từng búi chảy máu và sưng đau.
Sa trực tràng: khi một đoạn trực tràng tuột qua hậu môn ra ngoài. Vì cọ xát nên đoạn trực tràng này thường khô và xây sát. Có khi bình thường không thấy nhưng khi rặn mạnh mới lòi ra.
Khám trực tràng: là một động tác cần thiết và bắt buộc trong quá trình thăm khám tiêu hoá, vì có thể phát hiện những tổn thương quan trọng như ung thư trực tràng, trĩ hoặc tình trạng cấp cứu như viêm màng bụng chửa ngoài dạ con bị vỡ… mà nếu bỏ qua có thể gây nguy hiểm đến tính mạng người bệnh.
Tư thế người bệnh:
Nắm phủ phục như khám hậu môn.
Nằm ngửa hai chân co và dạng rộng (tư thế sản khoa) thầy thuốc đứng bên phải người bệnh.
Nằm nghiêng chân dưới duỗi, chân trên co.
Thầy thuốc dùng ngón tay trỏ có bao cao su thấm sầu nhờn (dầu Parafin) cho trơn, đưa nhẹ nhàng và từ từ vào hậu môn người bệnh, thăm sự chứa đựng bên trong trực tràng, tình trạng niêm mạc và thành trước, sau và hai bên trực tràng.
Bình thường:
Trực tràng rỗng, không đau khi ấn vào các túi cùng màng bụng (túi cùng Dougia), niêm mạc mềm mại trơn, khi rút tay ra không có máu và mủ theo ra.
Nam giới ở phía trước, ta sờ thấy tuyến tiền liệt nhỏ, bằng hạt đào, ở giữa có một rãnh dọc nông, mật độ hơi chắc và không đau, ở phía trên là túi cùng hai bên là túi tinh và niệu quản dưới, nhưng không sờ thấy.
Nữ giới, qua thăm trực tràng phói hợp với tay đè ăn phía bụng ta có thể thấy một phần tử cung.
Bệnh lý ta có thể thấy:
Những cục phân cứng lổn nhổn có thể đẩy lên hoặc móc ra theo tay.
Trĩ nội: Thấy từng búi căng phồng và ngoằn ngoèo ở dưới niêm mạc khi rút tay ra có thể cháy máu.
Tuyến tiền liệt to hơn bình thường và cứng: u lành hay ác tính của tuyến tiền liệt.
Thành của trực tràng có thể thấy những khối u to nhỏ, hoặc những mảng cứng và rất dễ chảy máu khi khám: thường là ung thư trực tràng.
Ngoài ra có thể sờ thấy những khối u hoặc hạch nằm ở gần trực tràng, vùng đáy chậu.
Đặc biệt khi thăm trực tràng ta thấy túi cùng Dougia căng phồng và rất đau trong viêm màng bụng mủ, chảy máu ổ bụng do chửa ngoài dạ con bị vỡ.
Những động tác khám hậu môn và trực tràng trên đây bắt buộc người bệnh phải bỏ quần, thầy thuốc cần có thái độ tôn trọng người bệnh, khám nhẹ nhàng, kín đáo, tránh thô bạo sỗ sàng, nhất là đối với phụ nữ.