ĐỊNH TỐC ĐỘ TUẦN HOÀN
NGUYÊN TẮC
Tiêm vào tĩnh mạch khuỷu tay những chất mà ki chạy hết vòng tuần hoàn ra mao mạch có biểu hiện mà ta biết được,do đó tính được thời gian chất đó lan truyền trong hệ tuần hoàn. Tùy theo chất tiêm vào, ta sẽ ghi thời gian từ tay đến lưỡi, từ tay đến phổi, v.v… ta so kết quả này với bình thường để hết tốc độ dòng máu nhanh hay chậm mà chẩn đoán bệnh.
MỘT SỐ NGHIỆM PHÁP ĐO TỐC ĐỘ DÒNG MÁU
Nghiệm pháp dùng natri sacarinat: tiêm nhanh trong 2 giây 3ml dung dịch natri sacarinat 50% vào tĩnh mạch cánh tay và dặn người bệnh khi thấy vị ngọt trong lưỡi thì báo cho biết, ghi lại thời gian từ lúc bắt đầu tiêm đến lúc người bệnh thấy vị ngọt.
Kết quả: bình thường sau 10 đến 16 giây thì người bệnh thấy vị ngọt (Thời gian này gọi là thời gian tay – lưỡi).
Dùng natri hydrocolat: tiêm 3ml dung dịch 10% chất này vào tĩnh mạch khuỷu sẽ tháy vị đắng trong lưỡi.
Kết quả: Bình thường, thời gian tay- lưỡi là 10 giây.
Nghiệm pháp dùng ête. Pha 0,30g ête trong 30ml dung dịch mặn đẳng trương. Tiêm như trên sẽ thấy ête khí thở. Thời gian này gọi là thời gian tay – phổi, bình thường từ 3 đến 8 giây.
Dùng magie sunfat (SO4Mg): gây vị đắng sau 15 – 17 giây.
Gần đay người ta dùng chất đồng vị phóng xạ tiêm tĩnh mạch rồi lấy máy đếm định được tốc độ riêng của đại và tiểu tuần hoàn.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
Thời gian tay lưỡi kéo dài: dài qua 20 giây trong đa số các trường hợp suy tim.
Thời gan tay – lưỡi rất ngắn: dưới 10 giây trong lưu lượng tim tăng lên trong các bệnh cường tuyến giáp trạng, thiếu máu, sốt, tê, phù do thiếu vitamin B1 ảnh hưởng đến tim, trong các bệnh tim bểm sinh có các lỗ thông phải trái, ví dụ: trong tứ chứng Fallot.
Thời gian tay – phổi kéo dài: trên 8 giây (có thể tới 20 giây hay hơn nữa) trong các trường hợp cao huyết áp tĩnh mạch như viêm màng ngoài tim co thắt, tắc tĩnh mạch chủ trên, tắc tĩnh mạch chi trên.
Thời gian tay- phổi rút ngắn: trong các trường hợp tăng lưu lượng tim, trong bệnh tim bẩm sinh có lỗ thông từ phải sang trái.
THÔNG TIM
Để đo lượng oxy bão hoà trong động mạch, tĩnh mạch đồng thời đo áp lực máu trong các buồng tim và mạch máu lớn (xem phần thông tim).
ĐO LƯU LƯỢNG MÁU QUA TIM
Đây là lượng máu do một tâm thất của tim bóp ra trong một phút, ở người bình thường, lượng máu do hai tâm thất bóp ra bằng nhau.
Có nhiều phương pháp tính lưu lượng của máu qua tim, cổ điển và thông dụng là phương pháp của Fick tính theo công thức:
Lưu lượng tim ml/phút = Oxy tiêu thụ 1 phút (ml) x 100 / Oxy (thể tích%) máu động mạch – Oxy (thể tích %) máu tĩnh mạch.
Lượng oxy tiêu thụ trong một phút đo bằng máy ( như khi làm chuyển hoá cơ bản), còn lượng oxy bão hoà trong máu động mạch thì lấy máu ở động mạch đùi, lượng oxy bão hoà trong máu tĩnh mạch hoặc trong buồng tim phải lấy khi thông tim phải.
Ở người lớn lưu lượng này độ 5 lít; trong các bệnh tim, lưu lượng này giảm xuống, có khi chỉ còn 2 -3 lít.