Bạch Mao Căn (Rễ Cỏ Tranh): Tác dụng chữa bệnh, kiêng kỵ và liều dùng– 白茅根的功效
Tên dùng trong đơn thuốc:
Bạch mao căn, Tiên mao căn (Rễ cỏ tranh tươi).
Phần cho vào thuốc:
Rễ và bông hoa.
Bào chế:
Nối chung dùng loại tươi mói lấy về, hái đầu dừng đỗy, đồng thời vất bỏ lá cọng, rửa sạch đfit cát, cũng có thể phơi khô đế dùng.
Tính vị quy kinh:
Vị ngọt, tính hàn. Vào ba kinh: tâm, tỳ, vị.
Công dụng:
Lương huyết, cầm náu, trừ nhiệt, lợi tiểu tiện.
Chủ trị:
Chữa thổ huyết, đổ máu cam, đi đái nóng, buốt, ra máu, tiểu tiện không thững lợi, nóng trong, phiền khát, mình mọc ban, sởi, vị nhiệt, nác ngược.
ứng dụng và phân biệt:
Vị thuốc này ngọt hàn, có thể thanh nhiệt lương huyết và đi vào phần huyết. Lô căn (rễ lau sậy) ngọt hàn, cố thể thanh nhiệt sinh tân dịch và đi vào phần khí. Mao hoa (hoa cỏ tranh) sắc lẽn uống, hiệu lực cầm máu rất mạnh, Mao trâm .(lông cỏ tranh) sắc lên uống có thê’ làm vỡ mủ nhọt ở ngoài.
Kiêng kỵ:
Người hư hàn không thực nhiệt, đi đái nhiều, không khát nước thì khôrig nên dùng.
Liều lượng:
Rễ cỏ tranh ba đồng cân đến một – hai lạng, Mao hoa (hoa cỏ tranh) hai đồng cân đến ba đồng cân, Mao trâm (lông cỏ tranh) một đồng cân đến hai đồng cân.
Bài thuốc ví dụ:
Bài Mao cát thang (Thẩm Thị Tôn sinh thư phương) chữa nấc thuộc nhiệt.
Mao căn, Cát căn, cả hai vị cho nước vào sắc lên uống.
Lời kết:
Tiết này chi nêu lên những vị thuốc lương huyết tương đối thường dùng. Cứ những vị thuốc chữa những chứng trạng xuất huyết do huyết nhiệt vọng hành (máu nóng đi bừa) như đổ máu cam, khạc ra máu, đi đái ra máu, đại tiện ra máu, và đi ly ra máu, mụn-đậu, nhọt sưng thì gọi là thuốc lương huyết. Những vị thuốc này nói chung đều co’ công năng thanh nhiệt lương huyết. Trừ Ngó sen tươi ra còn lại các vị khác phần nhiều tính vị đắng hàn. Cho nên tỳ vị hư hàn, ăn không đói, đi lỏng phân và phần huyết không thực nhiệt thì không nên dùng.
Tê giác, Đan bì, Bạch đầu ông, Đại, Tiểu kế, Trác bách diệp, Hòe hoa và Ngó sen tươi’đều có công hiệu cầm thổ huyết, thổ máu cam, đi đại tiểu tiện ra máu, trong đố hiệu lực của Tê giác, Đan bì rất mạnh, Ngó sen thì rất yếu. Tê giác, Dan bì, Bạch vi còn cổ thể chữa được kinh giản co giật và mê man nói làm nhảm. Bạch đầu ông, Tần bì, Trác bách diệp, Hòe hoa đều chữa lỵ thuộc nhiệt, sạng ba vị Bạch đầu ông, Tần bì, Trắc bách diệp chữa xích lỵ (lỵ đỏ ra máu), vị Hòe hoa chữa cố xích bạch lỵ. Bạch đầu ông, Tần bì, chủ yếu chữa chứng lỵ thuộc nhiệt, lý cấp hậu trọng (mót đi nhưng dặn không ra) tương đối nặng.
Tử thảo, Tê giác, Đan bì đều rất công hiệu chữa phát ban, sởi. Vị Tử thảo dùng để phòng ngừa chứng sởi hoặc có lên sởi cũng giảm nhẹ. Còn Tê giác, Đan bì dùng vào lúc sởi đa mọc hết, nhiệt độc rất thịnh.