Thuốc Đông Y chữa ho
Thuốc tuyên thông phế khí:
Vị phần nhiều cay, đắng. Cay thi hay tán hay đi, đắng thì hay táo hay tả, cho nên phần nhiều có tác dụng phát tán và hành khí, hay tuyên thông phế và thông đờm. Trong đo’ Hạnh nhân càng thiên về lịnh suyễn, Cát cánh có thể tiốu long đờm đặc, Xạ can chữa ho mà chữa cả đau họng. Những loại thuốc này ngoài tuyên phế trừ đờm ra, càng có đầy đủ công năng tán tà thạnh nhiệt, cho nên đều là thuốc chữa ho ngoại cảm. No’i chung là kiêng kỵ các chứng hư, khi ứng dụng trên lâm sàng nên xem xét cẩn thận.
Thuốc thanh Đàm:
Nếu đờm rãi do các tà phong, nhiệt, táo hòa gây nên thành nhiệt đàm, khi điều trị phải đùng thuốc thanh đàm (Làm mát đờm). Nếu do ngoại cảm nội thương mà hình thành, các chứng đờm táo, phế nuy, phế ung, ho, đờm nhầy kho’ long, nên dùng bối mẫu, Tỳ bà diệp, Hải triết bì. Nếu đờm nhiệt gây nghịch khí nôn ọe, nên dùng Tỳ bà, Trúc nhự. Nếu do đàm mê tâm khiếu gây nên các chứng mê man, nói lảm nhảm, trẻ em cấp kinh, co giật, nên dùng Đởm nam tình, Thiên trúc hoàng, Trúc lịch. Mã bảo. Cđ trường hợp do đờm nhiệt gây nên tràng nhạc đờm hạch, thì nên dùng Hải triệt bì, Thổ bối mẫu, phối hợp dùng với Hài tảo, Côn bố, để có thể nhuyễn kiên (tiêu mềm hạch rốn).
Thuốc ôn Đàm:
Bán hạ vị cay bỉnh, hay ráo thấp hóa đờm, đồng thời có thể giáng nghịch khí chỉ nôn ọe do đờm. Bạch giới tử ôn phế khí mà long đờm. Kinh lịch hóa đàm mà dẫn xuống, chữa trúng phong ngọng lưỡi. Thường sơn càng là vị thuốc chủ yếu tiêu đờm triệt (tiệt) ngược (cắt cơn sốt rét).
Thuốc khử (trừ) Đàm:
Như Mông thạch, Phù thạch tuy cùng là thuốc chữa nhiệt thịnh sinh đàm, thanh nhiệt giáng hỏa, nhưng vị Mông thạch lại trầm giáng lợi đờm, chữa tim hồi hộp suyễn thở do đờm tích lại gây nên. Phù thạch thỉ chủ về thanh nhiệt, vị mặn, nhuyễn kiên, cho nên có thể tiêu được biếu cô’ (anh lựu) kết hạch. Sinh thiết lạc cũng là vị thuốc nặng giáng (trọng trụy) có thể tiêu đờm yên sợ hãi (định kinh), nhưng khác với Mông thạch là vị thuốc chữa đờm nhiệt. Sơn từ cô chủ yếu tan vật rắn, tiêu kết tụ để trừ đờm hạch, thực tế là thuốc nhuyễn kiên. Tạo giác thì khai khiếu trù đờm, song tính thuốc rất mạnh, khi dùng nỗn thận trọng.
Thuốc chữa ho:
Tử uyển đáng ôn, thiên về chữa ho và suyễn thuộc thấp. Khoản đông hoa cay ôn, thiên về chữa ho và suyễn thuộc hàn. Bách bộ cố thể chữa phổ biến về ho; ho lâu, ho lao lại càng thường dùng.
Bách hợp nhuận phế liễm khí, chữa chứng ho lâu ngày hư tổn. Tử uyển, khoản đông hoa chữa ho kiêm hóa được đờm. Bách bộ có tác dụng sát trùng. Bách hợp có công năng thanh tâm dưỡng thần. Nhị đông (Mạch môn đông, Thiên môn đông) nhuận táo dưỡng phế âm, cho nên cũng chữa được ho
Thuốc bình suyễn:
Suyễn có chỗ khác nhau do Phế Tý, thân gây nên, như phế nhiệt sinh đờm mà ho suyễn nên dùng Cáp phấn. Nếu ho suyễn do trong vị có đờm tích trệ gây nên thì dùng Lai bạc tử. Suyễn thở do thận hư không nạp được khí thì dùng Ngũ vị tử để nạp thận khí mà liễm phế khí. Thận hư dương phù (bốc lên). Thl dùng bột chì (nhu bài Hắc tích đơn). Nếu phế và thận cả hai đều hư mà ho suyễn, đồng thời cũng có đờm và máu, thì có thể dùng Cáp giới (tắc kè). Còn có Náo dương hoa đốt lên hít kho’i, co’ thể làm tê được phế lạc đồng thời khỏi đau định suyễn.