CÁCH CHÂM CỨU
针灸法
I. CÁCH CHÂM
1. Các loại kim châm
Chủng loại kim châm thì rất nhiều, nhưng nói chung thường dùng 3 loại là: hào kim, kim ba cạnh và kim châm da [xưa có cưu châm, vì trong đó có những loại kim dùng sang phạm vi ngoại khoa và động tác phức tạp ít dùng nên lược đi).
– Hào kim: là loại kim ứng dụng rộng rãi, thân kim rất nho, mũi kim không nhọn hoắt; độ dài kim có các cỡ: nửa thỗn, một thổn, thốn rưỡi, hai thốn, ba thốn, năm thốn. Loại kim này ứng dụng vào chữa rất nhiều loại bệnh.
– Kim ba cạnh: lam bằng thép không gỉ, dài chứng thốn rười đến hai thốn, đầu kim nhọn và có ba cạnh, thân kim khá thô, mũi kim sắc bén.
– Kim châm da: cũng gọi là kim mai hoa, kim thất tinh, hình nó như cái gương sen hoặc buộc kim thành từng bó từ 5 hoặc 7 kim nho, 5 cái thì gọi là kim mai hoa, 7 cái thì gọi là kim that tinh.
2. Luyện cách châm
– Khi mới tập cầm kim châm đầu tiên cần luyện tập sức ngón tay và luyện động tác vê kim, sau đó mới châm trên người.
– Luyện sức ngón tay: Lấy mấy tờ giấy bản gập lại nhiều lớp ròi buộc thành gói chặt chẽ. Tay trái cầm gói giấy tay phải dùng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa cầm kim, tập châm lên gói giấy. Lúc bắt đầu dùng kim nửa thốn, tiến dần lên dùng kim một thốn, hai thốn, ba thốn, mà luyện tập. Tập đến khi không c’ân dùng sức cũng có thể vê kim được, lúc ấy mới tạm gọi là biết châm, mới có thể châm, vê, tiến kim nhanh trên da người được.
– Luyện tập vê kim: Buộc một gói bông thành hình câu, dùng chỉ quấn chặt lại thành mươi vòng thật tròn, tay trái câm quả bông, tay phải cầm kim như nói ở trên, đặt kim lên quả bông, một lân đếm một lần vê tiến kim, vê lùi kim thật tự nhiên, lúc bấy giờ châm trên người mới không thấy khó khăn. Khi vê, ngón tay chỉ nhích qua nhích lại trong khoảng đủ cho thán kim xoay nửa vòng tròn là được. Không nên xoay thân kim quá mức, xoay quá sẽ làm cho mặt da xoắn lại, gây cảm giác khó chịu, có hại cho châm cảm.
3. Chuẩn bị trước khi châm
– Kiểm tra kim: trước khi châm cần kiểm tra kim xem có chỗ bị rạn nứt, chỗ cong gập hay không? Có gì hay không? Mũi kim có cong hay không? Nếu mũi kim có những tình tạng trên thì loại ra, chọn lấy những cây kim tốt, để khi châm và rút kim bớt khó khăn, đề phòng sự cố gẫy kim.
– Đem kim thả vào nồi nước sôi đun thêm 10 phút là được.
– Chọn xem cần châm mấy huyệt, mỗi huyệt sâu bao nhiêu, căn cứ vào người bệnh gầy béo mà lấy kim dài, ngắn cho vừa.
– Tuỳ theo noi phái châm mà đặt tư thế người bệnh cho phủ hợp, tư thê phải tự nhiên mối giữ được lâu; dặn dò người bênh không được động dậy khi chàm. Ví như châm huyệt ở đầu, mặt, bụng và tứ chi. thường phải nằm ngửa; châm các huyệt ờ cạnh đùi thường là nằm nghiêng; châm ở đầu mặt và tứ chi Cling có thè ngồi ngay ngắn hoặc ngồi tựa ngửa cổ.
– Chọn huyệt vị tốt rồi, dùng móng tay ấn vào huyệt vị thanh dấu chữ (+) để ghi nhơ.
– Hai tay thây thuốc phải được sạch khô, trước khi châm dùng còn 75 dô xoa lên tay từ 2 đen 3 phút. Dùng bông cồn xoa lên huyệt vị người bệnh, từ giữa xoay dần ra ngoài, sát trùng để đề phòng nhiễm trùng.
– Đối với người bệnh mới châm lần đầu, phải giảng giải đê người bệnh thây rằng châm không đau, không nên sợ sệt, đè đề phòng bệnh nhân vì so hãi mà say kim. Đối với người bệnh suy nhược, hoặc người đã từng say kim thì tốt nhất là đè ờ tư thế nằm ngửa. Trong khi châm mà người bệnh thấy co váng đâu hoa mắt, ra mồ hôi, buôn nôn, thì lập tức ngừng, vê kim rồi xử lý những biện pháp chống say kim.
– Trong phân huyệt VỊ có ghi độ châm sâu của từng huyệt, đó là nói ở người lớn; khi châm trẻ em cân phải châm nông, các huyệt chí nên châm đến 2 hay 3 phân thốn là được đồng thời phải chú ý không cho giày giụa đê đề phòng tiến hoặc rút kim khó hoặc gãy kim.
– Đổi với người chửa, ngoài những huyệt cấm châm đã quy định ra, các huyệt khác ỏ’ đầu ngón tay ngón chân là những
huyệt rất nhạy cảm như Thiếu thương, Thương dương, Trung xung, Ẩn bạch, Lệ đoài thì tốt nhất là không châm.
4. Góc độ châm
Do sự khác nhau về huyệt vị và yêu cầu của bệnh, vì thế góc độ châm kim cũng có khác nhau. Nói chung, chia ra làm 3 loại là: châm đứng kim, châm nghiêng kim và châm ngang kim.
– Châm đứng kim: là thân kim vuông góc với mặt da mà đâm. Cách châm này ứng dụng rộng rãi, Phàm huyệt vị ở những nơi tầng cơ dầy dặn đều sử dụng.
– Châm nghiêng: là thân kim để nghiêng nửa góc vuông mà đâm vào. Cách châm này phù hợp với những nơi tầng cơ nông, mỏng, hoặc các tạng phủ, cơ quan trọng yếu như vùng đầu, quanh ổ mắt, ngực.
– Châm ngang: cũng gọi là châm dưới da, là thân kim để nằm ngang với mặt da mà châm. Cách châm này thường sử dụng ở huyệt vị trên mặt và một số tạng khí trọng yếu.
5. Cách châm hào kim (Hào châm)
Cách tiến kim: tiến kim cũng gọi là vào kim, có 3 cách rất thông thường.
Cách vê vào: là một cách rất thông thường đối với hào kim.
Dùng ngón tay phải giữ cán kim, mũi kim nhằm đúng chỗ huyệt, nhè nhẹ đặt vào da, dùng áp lực làm cho mũi kim đâm vào biểu bì, sau đó từ từ vê kim xuống. Cách vê này cần dựa vào tay trái phối hợp; thao tác của tay trái như sau:
– Áp một ngón cái: đầu ngón tay cái tay trái áp lên huyệt vị đinh châm, tay phải câm kim, mũi kim dựa vào móng ngón tay cái mà đàm vào huyệt và vê tiến kim xuống. Cách này hợp vó’i chàm kim ngần như châm huyệt Hợp cốc, Liệt khuyết.
– Áp hai ngón tay: trước hết là cầm bằng hai ngón tay cái và trỏ của tay trái kẹp lấy phía trên mũi kim một ít, nhằm vào huyệt vị, ngón tay phải cám cán kim, sau đó hai ngón cái, trỏ tay trái ân xuống một cái, đống thời tay phải đưa mũi kim sâu vào huyệt vị rồi vê kim tiên xuống. Cách châm này hợp với kim dài châm ờ huyệt Hoàn khiêu, Túc tam lý…
– Áp kẹp hai ngón tay giữ huyệt: những nơi da thịt rất mỏng nhu huyệt An đường; hoặc huyệt Nhân trung ở mặt, khi tiên kim thì dùng hai ngón trỏ, cái tay trái bóp da chỗ huyệt vị lại cho rỏi lên, tay phái châm kim vào.
Cách dùng ống phóng kim: Lấy một hào kim và một ống nhỏ, hào kim phải dài hơn ống nhỏ một ít, đút kim vào trong ống đó, mũi kim và miệng ống ngang nhau, ấn lên trên huyệt vị định châm, tay trái giữ ống, rồi dùng ngón trỏ tay phải gõ lên cán kim chồ lộ ra phía miệng trên của ống, làm cho mũi kim đám nhanh vào, bây giờ rút ống ra, vê tiến kim. Cách tiên kim này phù hợp với người sợ đau và trẻ em.
Cách chích kim: Là dung kim ba cạnh đâm thật nhanh cho sâu khoảng 2 – 3 phân thổn. Cách chính này cần phải có tay trái hỗ trơ cho việc cốc định nơi chích thì mới dễ chích.
6. Cảm giác châm kim
Khi châm kim vào huyệt vị đạt đến độ sâu nhất định, người bênh thường thấy sinh ra một cảm giác buốt, tê,
Lê Văn Sửu và các cộng sự chướng, hoặc nằng nặng, đồng thời dưới ngón tay thây thuốc cũng cảm thấy tụ, nặng. Như thế, Đông y gọi là “đắc khí”. Sau khi đắc khí, căn cứ vào bệnh tình, chọn lấy thủ pháp khác nhau. Nếu như không đắc khí thì nhè nhẹ nâng lên, ấn xuống hoặc vê kim cũng có thể đắc khí được.
Nhưng cũng có người, có huyệt không nhất thiết phải đắc chí, chỉ lưu kim bất động cũng có hiệu quả chữa.
Do nơi châm kim nông, sâu khác nhau, cũng như phương hướng vê, góc độ châm, sức nâng ấn nhanh chậm, mạnh nhẹ khác nhau, đặc biệt là thể chất người bệnh ở mức độ nhạy cảm khác nhau, cảm giác châm chích có khi rất nhỏ nhẹ, có khi rất rõ rệt, có khi chỉ ở chỗ huyệt vị, có khi lan tỏa ra các nơi khác, có khi chuyển dần đến những nơi rất xa. Nói chung lại, thủ phải phù hợp, cảm giác nhanh chóng, thì kết quả cũng rẫt rõ ràng.
7. Thủ pháp bổ tả của châm kim
Thủ pháp châm chích nói chung có 2 loại: một là thủ pháp bổ, hai là thủ pháp tả. Bổ hoặc tả là căn cứ vào thể chất của người bệnh và bệnh tình mà quyết định. Nói chung là đối với người bệnh có thể chất khỏe mạnh thì dùng pháp tả pháp, người bệnh thể chất hư nhược thì dùng bổ pháp. Đối với các loại bệnh tình thuộc thực, thuộc nhiệt, thuộc cấp tính thì dùng tả pháp, các bệnh thuộc hư, thuộc hàn, thuộc mãn tính thì dùng bổ pháp. Đối với các loại bệnh tình hoặc nóng lạnh xen kẽ, hoặc hư thực cùng thấy thì dùng thủ pháp bình bô bình tả.
Thú pháp bổ tả của châm chích có rất nhiều cách, ở đây xin giới thiệu những thủ pháp bô tả Cơ bản. Thủ pháp bổ tả cơ bản là những thao tác khác nhau, mà ở mỗi thao tác đem lại những hiệu quả khác nhau. Nó có thể được dùng riêng rẽ, có thể dùng kết hợp với nhau; từ kết hợp ít đến kết hợp nhiều cách một lúc, tuỳ theo tài nghệ của người thầy và yêu câu cua bệnh tình. Có 8 loại thủ pháp bố tả cơ bản là: Từ tật, khai bế, niệm chuyển, đề sáp, cửu lục, hô hấp, nghênh tuỷ, mau từ.
Thao tác, hiệu quá ứng dung cua từng thủ pháp như sau:
– Từ tât, là thao tác tiến kim, rút kim nhanh hay chậm. Bổ; tiên kim từ từ, rút kim nhanh hơn, làm cho dương khí từ ngoài theo kim vào trong sâu một cách êm êm, và khi kim ra thì khí (X trong không kịp theo kim mà thoát ra ngoài, đó là cách bổ. Tả: tiến kim nhanh, rút kim từ từ, làm cho khí ở ngoai không vào trong thêm, khí ở trong theo kim từ từ thoát ra ngoài, đó la cách tả. Từ tật pháp được ứng dụng trong tất cả mọi trường hợp.
– Khai bê là thao tác sau khi rút kim có bịt lỗ kim, hay không bit lổ kim ngay tức thì Bổ lồ sau khi rút kim, kịp thời dùng ngón trỏ tay trái bịt ngay lỗ kim và day nhè nhẹ mấy lân, làm cho lổ kim kín lại, khí ở trong không thoát ra được. Tả là khi rút kim thì vừa rút vửa lắc ngang thân kim nhè nhẹ làm cho lỗ kim hơi giãn rộng ra, khi kim đã thoát ra khỏi mặt da, đế một lát cho khi co thời gian thoát ra ngoài bớt, sau đó mới sát trùng và bịt kín lỗ kim lại, phép khai bế có thể ứng dụng trong tất cả mọi trường hợp. Chỉ riêng hai phép từ tật
và khai bế kết hợp với nhau cũng đem lại hiệu quả bổ hư, tả thực rất mạnh mẽ.
– Niệm chuyển là thao tác vừa đếm vừa vê, đếm một tiếng lại vê kim một 1 lần, đếm số lẻ trước, số chẵn sau. Khi đêm số và vê kim có chia ra bô tả như sau : bổ là khi vê cán kim xoay ngược chiêu kim đồng h’ô, ngón tay cái lùi hơi yếu và hơi chậm khi vê cán kim xoay thuận chiều kim đồng hồ thì đê ngón tay cái tiến hơi mạnh và hơi nhanh hơn tả là ngược lại với bổ, khi vê cán kim xoay ngược chiều kim đồng hồ thì ngón tay cái lùi hơi nhanh và hơi mạnh hơn, khi vê cán kim xoay thuận chiều kim đồng hồ thì ngón tay cái tiến hơi yếu và hơi chậm hơn. Sức vê hơi mạnh hay hơi yếu về hướng phải hay hướng trái có tác dụng như dùng bánh lái, tay chèo để đưa khí trong đường kinh được đúng hướng và tập trung, giống như con thuyền đi đúng giữa dòng nước chảy, ứng dụng của niệm chuyển vào những bệnh chứng kinh khí tán loạn là chính, nhưng cũng thông dụng kết hợp trong khi tiến kim, rút kim cho dễ dàng. Nó có thể được ứng dụng đơn độc để kích thích kinh khí trong thời gian lưu kim, cũng có khi kết hợp với tất cả các thủ pháp khác trong khi thao tác châm kim.
– Đề sáp, là cách nâng ấn kim. Sau khi kim được châm vào huyệt vị đến độ sâu đã định, ngón tay cầm kim nâng kim lên rồi ấn kim xuống trong phạm vi tổ chức cơ thể. Bổ là trước nông sau sâu, nhẹ tay khi nâng nặng tay khi ấn, làm cho khí ỏ’ tâng nông của kinh mạch theo sức mạnh mà ép vào tâng sấu kinh mạch. Tả là trước sâu sau nông, mạnh tay khi nâng, nhẹ tay khi ấn, làm cho khí ó’ tầng sâu kinh mạch ép mạnh từ trong ra tang nông của kinh mạch, ứng dụng cua phép nàng ấn nham giải quyết tình trạng mất cân bằng trong quan hệ giữa biếu và lý.
– Cửu lục, là cách đếm số lán làm thao tác. Số lần lẻ là dương, sổ làn chẵn là âm; sò lẻ gôm 1.3,5,7,9, số chẵn gồm 2,4,6,8. Theo truyền thong, người ta lấy số 9 làm số dương tiêu biếu, so 6 là số âm tiêu biểu. Khi thao tác kim châm như vê hoặc nàng ấn kim, số lần thao tác 9 là bổ; số lần thao tác 6 là tả. Bổ là dương sổ, ta là âm sổ, vì vậy số dương cũng chỉ kết hợp với cách vê bổ, nâng ấn theo cách bổ; số âm chỉ kết hợp vớ) cách vê tà, nâng ấn theo cách tá. Không có trường hơp nào vê tả lai làm sô lẻ, hoặc ngược lại… Nếu bệnh tình nghiêm trọng, người ta có thê nâng số 6 hoặc số 9 lên nhiều lần như 6 X 3; 6 X 6; 9 X 3; 9 X 9…
– Hô hấp là cách khi tiến hay rút kim, bảo người bệnh thờ ra hay hit vào theo lệnh của thầy thuốc. Bổ là khi thở ra thì tiến kim, khi hít vào thì rút kim Khi thở ra, khí trong con người còn lại ít, ta tiến kim vào, khi theo kim vào, đó là thêm cho cái ít . Khi hít khi vào, khí trong con người có thừa, ta rút kim ra, khí có theo kim ra chút ít cũng không làm hại cái có thừa. Tà là khi hít vào ta tiến kim, khi thơ khí ra ta rút kim. Khi hít khí vao ta tiến kim, khi theo kim vào là thêm cái có thừa, việc thêm dó là làm thêm có hại; ngược lại, khi thở khí
ra, khí trong con người còn lại rất ít, ta lại rút kim ra, khí theo kim ra thêm đã làm cái hại thêm cái còn ít. Bổ tả theo hô hấp được ứng dụng để chữa các loại bệnh chứng về khí hư, thực.
– Nghênh tuỳ là cách châm kim thuận hay nghịch chiều kinh khí tuân hành. Mũi kim ngược chiều đường kinh là tả, mũi kim thuận chiều đường kinh là bổ. Ngoài ra, người ta còn theo đó suy ra để tiến hành châm thứ tự thuận nghịch cho một số huyệt trên cùng một đường kinh. Nói chung châm thuận đường kinh hay thuận thứ tự đều là thúc cho kinh phí đi nhanh hơn; châm ngược đường kinh hay ngược thứ tự đều làm giảm tốc độ kinh khí. Làm giảm cái nhanh, mạnh là tả; làm tăng vào cái chậm, cái yếu là bổ.
– Mầu tử, là phép chữa bệnh theo quan hệ ngũ hành tương sinh giữa các tạng phủ và quan hệ ngũ hành tương sinh giữa ngũ du huyệt. Khi một kinh có bệnh, muốn bổ, người ta chọn huyệt trên đường kinh của một tạng phủ có hành sinh ra hành của tạng phủ có bệnh hoặc huyệt có hành sinh ra hành của tang phủ có bệnh. Ví dụ: tạng có bệnh là can, hành mộc, muốn bổ, ta chọn các huyệt trên kinh thận, hành thuỷ (thuỷ sinh mộc], hoặc chọn huyệt mang hành thuỷ trong ngũ du huyệt trên kinh can là huyệt Khúc tuyền. Cũng bệnh can, ta muốn tả, chọn những huyệt trên kinh tâm, hoặc chọn những huyệt mang hành hỏa trên can là huyệt Hành gian.
Tác giả: Lương Y Lê Văn Sửu