HUYỆT CÁCH QUAN
B 46 Gèguàn (Ko Koann)
Xuất xứ của huyệt Cách Quan:
«Giáp ất»
Tên gọi của huyệt Cách Quan:
– “Cách” ở đây nói tới cơ hoành.
– “Quan” có nghĩa là cái chốt gài ngang cửa.
Huyệt này ở ngang bên huyệt Cách du là huyệt tương ứng với cơ hoành, đồng thới nó có dấu hiệu chủ yếu trong các chứng bệnh như nấc cụt, nôn mửa, Ợ hơi hoặc những rối loạn kết hợp với cơ hoành khác, nên có tên là Cách quan.
Theo “Thái ngải thiên” ghi rằng: “Cách quan, đó là cái chốt cửa của cách mô”.
Huyệt thứ 46 Thuộc Bàng-quang kinh.
Mô tả huyệt của huyệt Cách Quan:
1. Vị trí xưa:
Nằm hai bên xương sống dưới đốt sống lưng 7 đo ngang ra 3 thốn, nơi chỗ hõm (Giáp ất).
2. Vị trí nay:
Đốt xương sống thứ 7 đo ra 3 thốn hoặc điểm giao nhau của đường ngang qua mỏm gai của đốt xương sống lưng 7 và đường thẳng đứng ngoài Đốc mạch 3 thốn. Khi điểm huyệt nên ngồi khom lưng hay nằm sấp.
3. Giải phẫu, Thần kinh Dưới huyệt:
là bờ dưới cơ thang, cơ lúng to, cơ chậu sườn ngực, cơ gian sườn 7. Dưới nữa là phôi – Thần kinh vận động cơ và nhánh dây thần kinh sọ não so XI, nhánh đám rối cô sâu, nhánh đám rối cánh tay, nhánh dây thần kinh gian sườn 7 và nhánh dây sống lưng 7. Da vùng huyệt chi phối bỏi tiết đoạn thần
Tác dụng trị bệnh của huyệt Cách Quan:
1. Tại chỗ Đau cứng lưng, đau thần kinh liên sườn.
2. Toàn thân Co thắt thực đạo, xuất huyết dạ dày, ăn uống kém, nôn mửa, ợ hơi.
Lâm sàng của huyệt Cách Quan:
1. Kinh nghiệm tiền nhân Phối Trật biên, Kinh cốt, trị lạnh vai, lưng đau cứng khó cúi ngửa (Tư sinh).
2. Kinh nghiệm hiện nay Đại chùy, Kiên liêu, Thiên tông trị đau vai lưng, cúng cột sống.
Phương pháp châm cứu:
1. Châm Xiên, 0,5 – 0,8 thốn
2. Cứu 3 – 7 lửa
3. Ôn cứu 10-12 phút.
* Chú ý Không được châm sâu, dễ tốn thương tới Phổi
Tham khảo của huyệt Cách Quan:
1. «Giáp ất» quyển thứ 7 ghi rằng: “Đau lưng, sợ lạnh, cứng cột song cúi ngửng khó, ăn
không xuống, nôn mửa ra nhiều dãi nhớt, dùng huyệt Cách quan làm chủ”.
2. «Tư sinh» ghi rằng: “Cách quan, Trật biên, Kinh cốt trị lưng lạnh đau, cứng cột sống khó quay ngửng cúi lên cúi xuống”.
3. «Đại thành» quyên thứ 6 ghi rằng: “Cách quan chủ về đau cột sống, sọ lạnh, cứng cột sống, cúi ngửng khó, ăn uống không xuống, nôn ọe ra nhiều nhớt dãi, trong ngực nghẹn lợm mửa, đại tiện không chừng, tiếu vàng”.
4. Quan hệ tới huyệt này, “Đồ dực”, “Kim giám” đều ghi rằng: “Từ chính giữa cột sóng đo ra mỗi bên 3 thốn rưỡi”.