HUYỆT THỪA MÃN
承滿穴
S 20 Chéng mǎn xué (Tchreng Mann).
Xuất xứ của huyệt Thừa Mãn:
«Giáp ất>>.
Tên gọi của huyệt Thừa Mãn:
– “Thừa” có nghĩa là nhận.
– “Mãn” có nghĩa là đầy đủ, no nê.
Khi thức ăn thức uống được nhận bỏi dạ dày và đạt tới mức của huyệt này số lượng vừa đủ. Cho nên có tên là Thừa mãn (nhận đủ). Nó rất có hiệu quả trong việc chữa trị chứng khó tiêu do thức ăn bị giừ lại và chứng trướng bụng.
Huyệt thứ:
20 Thuộc Vị kinh.
Mô tả của huyệt Thừa Mãn:
1. Vị trí xưa:
Dưỏi huyệt Bất dung 1 thốn (Giáp ất).
2. Vị trí nay :
Trên rốn 5 thốn (huyệt Thượng quản) đo ngang ra 2 thốn.
3. Giải phẫu, thần kinh Dưới của huyệt Thừa Mãn:
là cân cơ chéo to, cơ thẳng to, mạc ngang, phúc mạc. Dưới nữa là gan (phải), dạ dày (trái) – Thần kinh vận động cơ là 6 dây gian sườn dưói, và dây bụng, sinh dục. Da vùng huyệt chi phối bỏi tiết đoạn thần kinh T7.
Tác dụng trị bệnh của huyệt Thừa Mãn:
Tại chổ, toàn thân:
Đau dạ dày, viêm dạ dày cấp mãn tính, sôi ruột, tiêu hóa kém, đau do thoát vị.
Lâm sàng của huyệt Thừa Mãn:
Kinh nghiệm hiện nay:
Phối Nhũ căn trị co thắt hoành cách mô gây nất cụt. Phối Trung quản trị trướng đầy dạ dày.
Phương pháp châm cứu:
1. Châm Thang, sâu 0,5 – 0,8 thốn.
2. Cứu 5 lửa.
3. Ởn cứu 5 – 20 phút.
Tham khảo của huyệt Thừa Mãn:
1. «Giáp ất» quyển thứ 9 ghi rằng: “Sôi ruột, dùng huyệt Thừa mãn làm chủ”.
2. «Thiên kim» quyến thứ 18 ghi rằng: “Trị trong ruột sôi ào ạt, kiết lỵ. Cứu huyệt Thừa mãn 50 lửa”.
3. «Tư sinh» ghi rằng: “Thừa mãn, Nhũ căn trị co thắt cơ hoành gây nất cụt”.
4. «Đại thành» quyển thứ 6 ghi rằng: “Thừa màn chủ về sôi ruột bụng trướng đầy. khí suyễn ngược lên, ăn không xuống, ho thổ rút vai, khạc ra máu”.