HUYỆT NHŨ CĂN
乳根穴
S18 Rǔ gēn xué (Jou Kenn)
Xuất xứ của huyệt Nhũ Căn:
«Giáp ất»
Tên gọi của huyệt Nhũ Căn:
– “Nhũ” có nghĩa là vú.
– “Căn” có nghĩa là gốc hay chân của một cái gì đó. Huyệt nằm ở phần dưới của vú, nên có tên gọi là Nhũ căn (gốc vú).
Tên Hán Việt khác của huyệt Nhũ Căn:
Khí nhãn, Bệ tức.
Huyệt thứ:
18 Thuộc Vị kinh.
Mô tả của huyệt Nhũ Căn:
1. Vị trí xưa :
Chỗ hõm dưới huyệt Nhũ trung 1,6 (Giáp ất) và cách đường giữa ngực 4 thốn (Đồng nhãn, Phát huy, Đại thành).
2. VỊ trí nay :
Đầu núm vú kéo xuống, bờ trên xương sườn 6, cách đường Nhâm mạch 4 thốn, nếu phụ nữ thi đầy vú lên để tìm xương sườn.
3. Giải phẫu, Thần kinh Dưới của huyệt Nhũ Căn :
là cơ ngực to, cơ ngực bé, cơ gian sườn 5, bờ trên xương sườn. Dưới nữa là phổi (bên phải), mỏm tim (bên trái) – Thần kinh vận động cơ là nhánh cơ ngực to, nhánh cơ ngực bé của đám rối thần kinh nách. Dày thần kinh gian sườn 5. Da vùng huyệt chi phối bỏi tiết đoạn thần kinh T5.
Tác dụng trị bệnh của huyệt Nhũ Căn:
Tại chỗ, toàn thân:
Sữa ít, viêm tuyến vú, đau ngực, ho, suyễn, viêm khí quản.
Lâm sàng của huyệt Nhũ Căn:
1 Kinh nghiệm tiền nhân :
Phối Du phủ tri ho, đàm suyễn (Ngọc long).
2. Kinh nghiệm hiện nay :
Phối Hoang môn trị đau buồng vú. Phối Chiên trung, Hợp cốc, Thiếu trạch trị thiếu sữa sau khi sinh.
Phương pháp châm cứu:
1. Châm Ngang 0,5 – 1 thốn.
2 Ôn cứu 5-10 phút.
* Chú ý Không cứu nhiều quá. Không nên châm sâu vì bên dưới là gan trên (phải), phần dưới phổi (trai).
Tham khảo của huyệt Nhũ Căn:
1. «Giáp ất» quyển thứ 11 ghi rằng: “Tức đầy ở dưới ngực, sưng ngực, chọn huyệt Nhũ căn làm chủ”.
2. «Giáp ất» quyển thứ 12 ghi rằng: “Nhọt vú, lạnh run ớn sót chọn huyệt Nhũ căn”.
3. «Trửu hậu» quyển thứ nhất ghi rằng: “Trị nôn vọt, cứu ở dưới vú 1 thốn, 7 lửa là được”.
4. <<Y tâm phương» quyển thứ 9 ghi rằng: “Trị ăn vào mửa ra, cứu dưới hai vú mỗi nơi 1 thốn khi đỏ là được”.
5. «Dại thành» quyển thứ 6 ghi rằng: “Nhũ căn chủ trị dưới ngực tức đầy, đau tức trong ngực, ăn không xuống, nghẹn, sưng đau cánh tay, đau vú, nhọt vú, sốt lạnh, đau không thể đè ép vào được, ho, ỉa mửa vọp bẻ, lạnh tay lạnh chân”.
6. «Ngọc long ca» ghi rằng: “Chứng ho suyễn đàm nhiều, dùng Du phủ, Nhũ căn” (Háo suyễn chi chứng khái đàm đa, nhược dụng kim châm tật tự hòa, Du phủ, Nhũ căn nhất dạng thích, khí suyễn phong đàm tiệm tiệm ma).
7. «Tịch hoằng phú» ghi rằng: “Giữa hai sườn, Nhũ căn trị phụ nữ khó sinh” (Đán hướng Nhà căn nhị lực gian, hựu trị phụ nhân nan sinh sản).
8. Huyệt này có công hiệu lý khí hoạt huyết, thông kinh lợi sữa, là một trong những huyệt trị bệnh thuộc về vùng vú và đau vùng trước tim.
9. «Tịch hoằng phú» ghi rằng: “Châm huyệt này để trị đẻ khó”.
10. «Kim giám» ghi rằng: “Dùng huyệt này để trị chứng qui bối ở trẻ con”.