THƯỢNG CỰ HƯ
上巨虚穴
s 37 Shàng jù xū xué (Chang Tsiou Sou)
Xuất xứ của huyệt Thượng Cự Hư:
«Linh khu – Bản du».
Tên gọi của huyệt Thượng Cự Hư:
– “Thượng” có nghĩa là trên, ở đây là phần trên của chân.
– “Cự” có nghĩa là lớn lao.
– “Hư” có nghĩa là chỗ trống.
Huyệt ở giữa xương mác và xương chày, có một khe hổng lớn nên gọi là “Cự hư”. Huyệt nằm trên Cự hư Hạ-liêm cho nên gọi là Cự hư Thượng-liêm hoặc Thượng Cự-hư (chỗ trống lớn ở trên).
Có người cho rằng, đây là Hạ hợp huyệt ở dưới của kinh Đại-trường (Cự ở đây có nghĩa là Đại-trường) và biểu hiện sự ứ trệ hay nghẽn tắc ở trường vị gây ra làm rối loạn sự đi lên của khí, làm ra chứng tê cứng ở ngực. Châm vào huyệt này có thể điều chỉnh lại sự lưu thông cho kinh khí bình thường, xua tan tà khí và làm tiêu tan ứ huyết, như vậy sẽ làm giảm bớt sự tê cứng và thanh khí ở lồng ngực nên có tên là Thượng Cự-hư (khoảng trống lớn ở trên).
Tên Hán Việt khác của huyệt Thượng Cự Hư:
Cự hư Thượng-liêm, Túc chi Thượng-ỉiêm.
Huyệt thứ :
37 Thuộc Vị kinh.
Đặc biệt của huyệt Thượng Cự Hư:
“Hạ hợp huyệt” của Vị và Đại-trường.
Mô tả của huyệt Thượng Cự Hư:
1. VỊ trí xưa:
Dưới huyệt Túc Tam lý 3 thốn (Giáp ất, Đồng nhân, Phát huy, Đại thành).
2. Vị trí nay:
Huyệt Ngoại Tất nhãn thẳng xuống 6 thốn, mào trước xương chày ngang ra 1 khoát ngón tay, huyệt giữa xương chày và mác.
3. Giải phẫu, thần kinh Dưới của huyệt Thượng Cự Hư:
là bò ngoài cơ cẳng chân trước, bò trong cơ duỗi chung các ngón chân, khe giữa xương chày và mác. Thần kinh đi từ tiết đoạn thắt lưng 4 – cùng 1. Lớp nông có dây thần kinh da bắp chân ngoài, lớp sâu có dây hông khoeo trong đi qua. Thần kinh vận động cơ là các nhanh của dây chày trước. Da vùng huyệt chi phối hỏi tiết đoạn thần kinh L5.
Hiệu năng của huyệt Thượng Cự Hư:
Lý trường hòa vị, thông trường hóa trệ, sơ kinh điều khí, thanh thấp nhiệt.
Tác dụng trị bệnh của huyệt Thượng Cự Hư:
1. Tại chồ, theo kinh:
Đau nhức ống chân, bại xuội.
2. Toàn thân:
Đau bụng, sình bụng, ỉa chảy, viêm ruột thừa, viêm ruột, viêm dạ dày, lỵ.
Lâm sàng của huyệt Thượng Cự Hư:
1. Kinh nghiệm tiền nhân:
Phối Cự hư Hạ- liêm trị ỉa chảy phân sống (Đại thành).
2. Kinh nghiệm hiện nay:
Phối Thiên khu trị viêm ruột, trị lỵ trực trùng. Phối Đại-trường du trị phù thũng. Phối Chi cấu trị táo bón.
Phương pháp châm cứu:
1. Châm Thẳng, hướng hơi về phía xương chày, sâu 1 – 2 thốn, có cảm giác như điện giật lan xuống mu bàn chân – Xiên, châm xuống dưới sâu 2 – 3 thốn có cảm giác căng tức lan xuống mu bàn chân, có khi lan tới đầu gối.
2. Cứu 5-15 phút.
3. Ôn cứu 10-30 phút.
Tham khảo của huyệt Thượng Cự Hư:
1. «Linh khu – Tà khí tạng phủ bệnh hình» ghi rằng: “Bệnh của Đại-trường làm cho đau thắt trong ruột đồng thời sôi lên ồ ồ. Nếu gàp mùa đông, bị trùng cảm bỏi hàn khí thì sẽ bị chúng tiêu chảy, đau ngay ở rốn, không đứng lâu dược, cùng một chứng hậu với vị, nên chon huyệt Cự hư Thượng-liêm để trị”.
2. «Giáp ât» quyển thứ 9 ghi rằng: “Ngực sườn đầy tức, sợ tiếng ồn, dùng huyệt Cự hư thượng liêu làm chủ”.
3. <<Giáp ất» quyển thứ 9 ghi rằng: “Đại trường có nhiệt, sôi ruột đau bụng, đau hai bên rốn, ăn không tiêu, suyễn, không đứng thăng lâu dược, dùng Cự hư Thượng-liêm làm chủ”.
4. «Giáp ất» quyền thứ II ghi rằng: “Nối cuồng chạy bậy, dùng Cự-hư Thượng- liêm làm chủ”.
5. «Thiên kim» quyển thứ 19 ghi rằng: “Đau nhức trong xương tuỷ, cứu Thượng liêm 70 lửa”.
6. «Đại thành» quyển thứ 6 ghi rằng: “Thượng Cự-hư chủ về tạng khí bất túc, liệt nửa người, đau nhức ống chân, lưng đùi tay chân tê, ống chân đau ê co duỗi khó, không đứng lâu được, xương tủy đau lạnh, Đại-trường lạnh, ăn không tiêu, ỉa chảy ra thức ăn, suy nhược, đau bụng rốn hai bên sườn, đau thắt trong ruột, ruột sôi, suyễn khó thở khó đi, đứng lâu khó khăn, thương hàn nhiệt trong vị”.
7. Huyệt này là “Hạ hợp” huyệt của Đại-trường.
8. Theo “Linh khu – Bản du” và “Giáp ất” còn gọi huyệt này là Cự-hư Thượng-liêm.
9. «Các châm cứu gia Thượng Hải, Trung Quốc»: Trong bệnh viêm ruột thừa, quan sát vùng đau ở gần huyệt Thượng Cự-hư, thấy khi ruột thừa đang bị viêm thi có điểm đau, khi ruột thừa hết viêm thi điểm đó hết đau.