TÍNH KHÍ VÀ THẦN CHÍ CỦA NGŨ TẠNG
A- NGUYÊN VĂN :
Ngũ ố: Can ô phong(1), tâm ố nhiệt (2), phê ô hàn (3), thận ô’ táo (4), tỳ ố thấp (5), thử ngủ tạng khí sở ố dã.
Ngũ dịch : Tâm chủ hãn (6), can chủ khấp (7), phế chủ thế(8), thận chủ thóa(9), tỳ chủ diên(10), thử ngũ dịch sở xuất dã.
Ngủ tàng : Tâm tàng thần, phế tàng phách, can tàng hồn, tỳ tàng ý, thận tàng tinh chí dã(11).
(Lỉnh khu : cửu chăm luận)
C-DỊCH NGHĨA NGUYÊN VĂN :
Năm cái ghét của ngũ tạng là: Can ghét phong, tâm ghét nhiệt, phế ghét hàn, thận ghét táo, tỳ ghét thấp. Đây là năm thứ khí ngũ tang ghét. Năm loại thùy dịch do ngũ tạng hóa sinh: Tâm chủ hóa sinh mồ hôi, can chủ hóa sinh nước mắt, phế chủ hóa sinh nước mũi, thận chủ hóa sinh nước miếng, tỳ chủ hóa sinh nước dãi. Đây là năm loại thủy dịch do ngũ tạng hóa sinh.
Năm tạng tự có một chức năng hoạt động về ý thức và tinh thần : Tạng tâm tàng thần, tạng phế tàng phách, tạng can tàng hiền, tạng tỳ tàng ý, tạng thận tàng tinh và ý chí.
D- CHÚ THÍCH :
(1) Can ố phong Vương Băng chú: “Phong làm cho gân khô cằn run giật”.
(2) Tâm ố nhiệt vương Băng chú :“Nhiệt làm cho mạch bị đục và lở”.
(3) Phế ố hàn: Vương Băng chú :“Hàn khí làm cho khí ngưng trệ ”.
(4) Thận ố táo Vương Băng chú :“Táo thì làm cho tinh huyết khô kiệt”.
(5) Tỳ ố tháp Vương Băng chú :“Thấp thì làm cho cơ nhục sưng phù bại liệt”.
(6) Tâm chủ hãn: Dương Thượng Thiện nói :“MỒ hôi là nước, là chất dịch của tâu lý toàn thân. Tâm là hỏa, người ăn uống thức ăn nóng, gặp lúc trời nóng hay thấp khí chưng cất, chất dịch dưới tấu lý đổ ra gọi là mồ hôi”.
(7) Can chủ khấp: Dương Thượng Thiện chú :“Can thông với mắt, trong mắt có chất nước chảy ra, gọi là nước mắt”.
(8) Phế chủ thế Dương Thượng Thiện chú :“Phế thông với mũi, trong mũi có chất nước gọi là nước mũi”.
(9) Thận chủ thóa Dương Thượng Thiện chú :“Mạch
túc Thiếu âm Thận đi lên đến họng, thông ra miệng, chất nước gọi là nước miếng, cho nên thận chủ hóa sinh nước miếng”.
(10) Tỳ chủ diên Dương Thượng Thiện chú :“Mạch túc Thái âm Tỳ thông với chất dịch của ngũ cốc, chảy lên trên huyệt Liêm tuyền, nên gọi là nước dãi”.
(11) Thận tàng tinh chí dã: Dương Thượng Thiện chú :“Thận có hai trái, cái bên trái là thận tàng chí, thận phải là mệnh môn tàng tinh”.