Thai già tháng hoặc thai nghén sau lúc đủ tháng, hoặc thai quá ngày sinh là thai nghén kéo dài hơn 42 tuần (249 ngày) sau ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng. Thai quá ngày sinh chiếm 3,5% đến 12%, và 1/4 những thai nghén này kéo dài vượt quá 43 tuần. Thai nghén kéo dài là thai nghén kéo dài giữa 41 và 42 tuần. Sự thay đổi được ghi nhận về tỷ lệ những thai già tháng liên quan đến sự ghi ngày tháng tuổi thai nghén không chính xác và sự phóng noãn không đều đặn. Những nghiên cứu sử dụng đường biểu diễn thân nhiệt cơ bản để xác định sự phóng noãn hoặc sự xác định ngày tháng thông thường bằng siêu âm lúc tuổi thai ở tuần thứ 17 đã thấy tỷ lệ những thai già tháng chiếm khoảng 4%. Rõ ràng rằng phần lớn những thai già tháng trong thực tế là những thai nghén đã được đánh giá sai về ngày tháng.

Tình hình bệnh tật và tỷ lệ tử vong chu sản

Mặc dù những công trình từ những năm 1960 đã chỉ ra sự tăng gấp đôi về tỷ lệ tử vong chu sản lúc 42 tuần và sự tăng gấp bốn lần vào tuần thai nghén thứ 44, bằng chứnggần đây luôn gợi ý rằng nguy cơ tử vong thai ở thai già tháng được theo dõi bằng những xét nghiệm không kích ứng hàng loạt (nonstress test) là khoảng 2 cho 1000 thai nghén. Tuy nhiên, thai già tháng thường phối hợp với tăng tỷ lệ của hội chứng già tháng, những dị dạng thai, thai khổng lồ và hội chứng hít phải phân su.

Xử trí

Sự phân tích về sau của những thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đã chứng minh răng gây chuyển dạ chọn lọc vào 41 tuần thai nghén đã làm giảm tỷ lệ tử vong chu sản, cứu được một mạng sống cho mỗi 500 cuộc gây đẻ chọn lọc. Trong những nghiên cứu này, những nhóm xử trí đối chứng hoặc xử trí chờ đợi nói chung đều được tiến hành theo dõi thai bằng thử nghiệm không gây kích ứng (nonstress test). Những bệnh nhân được tiến hành gây chuyển dạ không làm tăng tỷ lệ mổ lấy thai, mặc dù tỷ lệ mổ lấy thai cơ bản của những cơ sở này là khoảng 20%. Ảnh hưởng của can thiệp mổ lấy thai trong những cơ sở mà tại đó tỷ lệ mổ lấy thai thấp hơn thì còn chưa rõ ràng. Điều quan trọng phải ghi nhận là sự giảm tỷ lệ tử vong chu sản đó không được chứng minh khi tiến hành gây chuyển dạ vào thời gian từ 39 và 41 tuần thai nghén. Sau cùng, quan điểm của những phụ nữ về những lựa chọn xử trí này vẫn chưa được nghiên cứu một cách thích đáng.

Xử trí chờ đợi: theo dõi thai

Như được bàn luận ở trên, thử nghiệm không gây kích thích, được thực hiện ít nhất hàng tuần đã từng là hình thức theo dõi thai trước đẻ được dùng phổ biến nhất, dẫn đến tỷ lệ tử vong chu sản là 2 cho 1000 thai già tháng. Có bằng chứng ban đầu rằng sự phối hợp của xét nghiệm không kích thích kết hợp với đo chỉ số dịch ối được biết là một sự thay đổi sinh-vật lý, đã mang lại thông tin lâm sàng tương tự như thử nghiệm kích thích cơn co (tăng sự nhạy cảm hoặc những âm tính giả thấp hơn) và có thể hạ thấp tỷ lệ tử vong chu sản xuống 1 cho 1000. Mặc dù người ta đã chỉ ra rằng siêu âm Doppler đã làm giảm tỷ lệ tử vong chu sản trong một số tình trạng có nguy cơ cao chọn lọc như chậm phát triển trong tử cung nhưng hiện nay không có bằng chứng vào ủng hộ cho việc sử dụng nó để theo dõi thai già tháng.

Gây chuyển dạ

Phương pháp chuẩn gây chuyển dạ là sử dụng oxytoxin. về phương pháp này, có hai chế độ được chấp nhận do Trường đại học Sản phụ khoa Mỹ (ACOG) đề xuất: làm chín muồi cổ tử cung bằng prostaglandin E2 (PGE2) làm giảm sự kéo dài của gây chuyển dạ đẻ, thất bại của gây chuyển dạ và tỷ lệ đẻ bằng phẫu thuật.

Xử trí trong lúc đẻ

Xử trí trong khi đẻ thai già tháng phải xem xét đến tỷ lệ tăng đào thải phân su vào dịch ối, ít nước ối và thai khổng lồ. Hai tình trạng đầu tiên nếu có ý nghĩa về lâm sàng có thể điều trị bằng truyền dịch vào trong buồng ối và sẽ được mô tả ở phần sau trong chương này. Đây là một trong một số ít những trường hợp mà theo dõi thai liên tục bằng monitor dẫn đến những kết quả sơ sinh khá hơn nếu lấy mẫu máu da đầu thai nhi để đánh giá những trường hợp kéo dài mà không an tâm. Nếu theo dõi thai gián đoạn thì Trường đại học sản phụ khoa Mỹ (ACOG) khuyên nên làm 15 phút một lần trong giai đoạn 1 và 5 phút một lần trong giai đoạn 2.

Bài trướcChuyển dạ sớm – Nguyên nhân, chẩn đoán, xử trí
Bài tiếp theoĐẻ khó hay chuyển dạ khó và cách xử trí

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.