HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHĨ CHÂM
Nhĩ châm là một di sản quý báu trong châm cứu học cổ truyền của nhân loạNó có nguồn gốc rất xa xưa từ lối chữa bệnh dân gian của nhiều dân tộc thuộc vùng Địa trung hải vào thời đại văn minh cổ đại Ai Cập, đồng thời cũng được nêu lên trong kho tàng y học cổ truyền Đông phương.
NHĨ CHÂM VÀ Y HỌC CỔ TRUYỀN PHƯƠNG TÂY
Ai Cập thời cổ đại
Ở thời kỳ này có đề cập đến việc gây tuyệt sản ở phụ nữ bằng cách châm trên loa tai.
Thế kỷ IV trước Công nguyên (Hippocrate)
Trong sách bàn về sự sinh sản có nêu: “Những người để cho chích bên cạnh tai, lúc giao hợp vẫn phóng tinh, song tinh dịch chỉ có ít tinh trùng, nên không có tác dụng làm thụ thai”.
Trong sách Bàn về dịch tễ có nêu: “Đối với các chứng sung huyết tại các bộ phận ở phía dưới thì mở các tĩnh mạch ở tai”.
Tại Nhật Bản người ta có áp dụng phương pháp làm bỏng loa tai để trị một số bệnVà theo BS. P. Nogier, có thể người Nhật Bản đã học từ người Ba Tư.
Thế kỷ XVII
Năm 1637, trong cuốn Những thành tích kỳ lạ của Zacutus, tác giả Lusitanus (Bồ Đào Nha) đã đề cao lợi ích của việc dí bỏng loa tai để chữa chứng đau thần kinh hônChính tác giả đã chứng kiến một người bạn là một nhà quý tộc được chữa trị bằng phương pháp nêu trên bởi một thầy lang cư trú lâu năm ở Nhật Bản. Thầy lang đã dùng một cành nho đã đốt cháy ở đầu để dí bỏng loa tai của nhà quý tộViệc này được lặp đi lặp lại trong 2 giờ. Hai ngày sau, tại chỗ bỏng, thanh dịch chảy ra và tới ngày thứ 20 thì bệnh khỏTác giả cũng nêu lên những thành công của mình trong việc áp dụng phương pháp này cho một số trường hợp đau đầu và một số chứng sung huyết khác.
Thế kỷ XVIII
Năm 1717, trong cuốn Bàn về tai con người, Valsava đã miêu tả cùng một lúc trên cùng một bản vẽ của loa tai, giải phẫu các dây thần kinh, các động mạch và một phần tĩnh mạch của loa taông khu trú được nhánh của dây thần kinh tai to (N. auricularis major) tại mặt phía sau của loa tai, là nơi mà người ta đã đốt nhẹ vào đó để chữa đau rănông hướng dẫn kỹ thuật thích hợp để có thể đạt được tác dụng trị liệu mà không làm bỏng tới sụn. ông cũng mô tả chính xác vùng cần đốt để chữa đau răng khác hẳn với vùng vẫn dùng chữa đau thần kinh hônNhư vậy, đã xuất hiện sự khơi mào cho việc biểu diễn trên loa tai những vùng đại diện cho các bộ phận khác nhau của cả cơ thể (dù còn đơn giản). Có thể nói, cho đến thời điểm này, thủ thuật điều trị trên loa tai chủ yếu là dí bỏng và rạch cho ra máu.
Thế kỷ XIX
Năm 1810, Giáo sư Ignaz Colla (Parma – ý) thông báo về một ca liệt nhẹ chân nhất thời sau khi bị ong đốt ở vùng đối luân.
Giữa thế kỷ XIX, xuất hiện nhiều công trình trên các tạp chí y học của Pháp về vấn đề dí bỏng loa tai chữa chứng đau thần kinh hông, đau thần kinh mắt, đau răng (công trình của BS. Lucciana về đốt bỏng rễ luân chữa triệt để chứng đau thần kinh hông trong tạp chí “Tạp chí các kiến thức nội – ngoại khoa “ số 9, năm 1850). Malgaigne, một thầy thuốc nổi tiếng lúc bấy giờ của bệnh viện Saint Louis kết luận như sau: “Theo dõi các trường hợp đau thần kinh hông chữa theo cách dí bỏng loa tai thì có 1/3 trường hợp khỏi hẳn ngay sau buổi chữa đầu tiên; 1/3 khác giảm đau hoặc hết đau lúc chữa, đau trở lại sau 2,4, 6 hoặc 24 giờ; số ca còn lại không có kết quả”.
Sau thời kỳ này, người ta đã thảo luận sôi nổi về cơ chế tác dụng của thuật chữa bệnh dân gian này và đã có nhiều ý kiến nghi ngờ, bài xích (trong đó phải nói đến sự phủ định của nhà bác học nổi tiếng đương thời Duchenne de Boulogne). Giai đoạn này, nhĩ châm đã bị giới y học chính thống của châu âu vứt bỏ không thương tiếc, làm cho nó suýt bị chôn vùi trong dĩ vãng, nếu như không có những thầy thuốc dân gian tiếp tục sử dụng có hiệu quả cho bệnh nhân, nhất là nông dân, khỏi chứng đau thần kinh hông khiến cho những nhà nghiên cứu sau này phải nghiêm túc xem xét lại.
Thế kỷ XX
Năm 1950, BS. P. Nogier (Toulon, Pháp) trong lúc khám và chữa bệnh theo cách xoa bóp và nắn cột sống (vertebrotherapie) đã quan tâm đến các vết sẹo đặc biệt trên loa tai của một số bệnh nhân (có nguồn gốc từ cách chữa dân gian nêu trên). ông đã thử áp dụng và thấy có kết quả, sau đó ông cũng tìm cách thay đổi việc dí bỏng bằng các mũi châm và cũng đạt được kết quả tương tự.
Bằng sự lao động miệt mài của một Nhà khoa học, với việc quan sát tỷ mỉ, với nhiều thí nghiệm trên nhiều loại đau, với ý định xây dựng một phản xạ liệu pháp theo kiểu kích thích xoang mũi như Bonnie (thất bại cũng nhiều). ông đã lần hồi xây dựng được bản đồ đầu tiên về các khu vực và các huyệt loa tai, phản ánh thân thể con người trên loa taNhĩ châm hiện đại ra đời từ đây.
Tuy nhiên, sự ra đời của nhĩ châm hiện đại cũng rất ồn ào (kể từ tháng 2/1956 khi Nogier giới thiệu phát minh của mình độc lập hoàn toàn với châm cứu học cổ truyền tại Hội nghị lần thứ I của Hội Châm cứu Địa trung hải) với rất nhiều tranh cãGS. Vogralick giới thiệu ngay phép điều trị đặc sắc này trong cuốn Cơ sở của châm cứu học xuất bản năm 1960 tại Liên Xô cũ. BS.
Quaglia Santa (Turin-ý), một chuyên gia nghiên cứu châm cứu học theo góc độ thần kinh, sau khi “phán xét” bản đồ định khu trên loa tai và bản đồ nội tạng định khu trên loa tai đã kết luận: “Trong hiện trạng về các kiến thức của chúng ta, nếu như chúng ta chưa thể đưa ra các bằng chứng để chứng minh cho tính đặc thù mà Nogier nêu lên, chúng ta lại ít được quyền để khước từ nó”.
Sau năm 1962, một trường phái nhĩ châm mới được hình thành “Nhĩ châm theo Nogier” và được áp dụng ở nhiều nước châu âu.
NHĨ CHÂM VÀ Y HỌC CỔ TRUYỀN ĐÔNG PHƯƠNG
Nhĩ châm là phương pháp trị liệu có cơ sở lý luận được đề cập trong các tài liệu kinh điển và cũng được ghi nhận bởi các y gia từ thời cổ đại.
Trong những tài liệu Nội kinh và Nạn kinh, có nhiều đoạn kinh văn ghi chép về mối quan hệ giữa tai và toàn thân thông qua hệ thống kinh lạc, thể hiện tai không phải là một khí quan cô lập mà có quan hệ mật thiết với toàn thân, với lục phủ ngũ tạn
Biển Thước (thế kỷ IV trước Công nguyên): dạy chữa mắt mờ đục bằng cách cứu huyệt nhĩ tiêm nhiều lần. Biển Thước đã dùng châm tre châm vào loa tai 3 lần để cứu sống Quắc Thái tử.
Trương Trọng Cảnh (đời nhà Hán, thế kỷ II trước Công nguyên): đã dùng nước hẹ đổ vào lỗ tai để cứu người bị chết đột ngột.
Hoàng Phủ Bật (215 – 282): ghi lại 20 huyệt ở trước và sau loa tai, với huyệt nhĩ trung ngay chính giữa loa tai, trong cuốn Châm cứu Giáp ất kinh
Cát Hồng (281 – 340): dùng phương pháp kích thích tai để cấp cứu hồi sinh cho một số trường hợp, đồng thời cũng là người sáng lập ra thuật thổi không khí và thuốc bột vào lỗ tai để chữa bệnh.
Trần Tạng Khí (nhà Đường): có nêu cách dùng xác rắn lột nút hai lỗ tai chữa sốt rét trong bộ sách y học Chỉ nam ngược phương.
Tôn Tự Mạo (581 – 682): châm huyệt nhĩ trung chữa bệnh vàng da, cứu huyệt dương duy ở mặt sau tai, chữa điếc và ù tai.
Sách Vệ sinh bảo giám đời nhà Nguyên dạy cứu tĩnh mạch sau tai chữa trẻ em kinh phong.
Dương Kế Châu (tác giả Châm cứu đại thành – đời nhà Minh): cứu nhĩ tiêm chữa vẩy cá giác mạc.
Tại vùng nông thôn Trung Quốc cũng như ở miền núi Việt Nam còn lưu truyền nhiều cách chữa dân gian bằng loa tai như: châm vào dái tai chữa bệnh đau mắt đỏ; dùng mảnh sành rạch nông trên loa tai chữa đau sườn, tiêu chảy.
TÌNH HÌNH NHĨ CHÂM HIỆN NAY
Tại châu âu
Từ năm 1962, khi trường phái nhĩ châm Nogier ra đời đã tập hợp được nhiều nhà nghiên cứu có tên tuổi như Jarricot, Pellin…. và với nhiều công trình nghiên cứu trên thực nghiệm và trên người đã chứng minh được sự ánh xạ của thân thể và phủ tạng trên loa taNhững nghiên cứu cơ bản này đã làm cho nhĩ châm phát triển rất mạnh trong 30 năm sau đó. Tại các Hội nghị Châm cứu quốc tế trong những năm 70, người ta đã dành một nửa thời gian của Hội nghị cho nhĩ châm và châm tê.
Tại Liên Xô cũ, tiếp theo Vogralick, cũng có nhiều nhà nghiên cứu Liên Xô công bố các công trình nghiên cứu về nhĩ châm như IBalacan (1962), E.S. Belkhova (1963), N.N. Kukharski (1962), V.Kvitrichvili (1969, 1972), Ia Mikhalpeskaia (1972), M.S. Kagan (1974), đã có nhiều tác phẩm về nhĩ châm được xuất bản. Đặc biệt trong cuốn Điện châm phản xạ liệu pháp của Portnop (1982), tác giả đã có giới thiệu những công trình thực nghiệm của mình trên chó và thỏ chứng minh sự tồn tại khách quan của các khu đại diện của các cơ quan nội tạng trên loa tai động vật và đề cập tới điện nhĩ châm và điện nhĩ liệu pháp.
Tại châu á
Tại Trung Quốc: vấn đề nhĩ châm thật sự trở nên được quan tâm từ sau những công bố của Nogier. Năm 1959, xuất bản tập sách Nhĩ châm, chủ yếu tập hợp một số bài báo phản ảnh các công trình của trường phái Thượng HảThời kỳ này các nhà châm cứu Trung Quốc lấy bản đồ huyệt loa tai của Nogier làm cơ sở. Trong sách chỉ có 1 bài giới thiệu 12 huyệt mới trên loa tai không phải của Nogier và chỉ đánh số mà chưa có tên. Cho đến năm 1970, cơ quan quân y tỉnh Quảng Châu ấn hành bộ tranh châm cứu có phần hướng dẫn 115 huyệt loa tai trong đó có nhiều huyệt mới ra đời mang tên theo Đông y như thần môn, tam tiêu, can dương (1 và 2…) (bản đồ huyệt vị này có những điểm dị đồng với bản đồ huyệt vị của trường phái Nogier). Nói chung tình hình nghiên cứu nhĩ châm của Trung Quốc chủ yếu dựa vào thực tiễn lâm sàng, ít có những công trình nghiên cứu cơ bản.
Tại Việt Nam: từ tháng 5/62, Viện Nghiên cứu Đông y khởi sự nghiên cứu nhĩ châm. Tại Hội nghị Thuốc Nam châm cứu toàn ngành lần thứ 2 (11/62), Khoa Châm cứu của Viện đã giới thiệu những nét đại cương về nhĩ châm.
ở Hội nghị thành lập Hội Châm cứu Việt Nam (1968), tổ nhĩ châm của Viện đã báo cáo tổng kết 5 năm nghiên cứu nhĩ châm trên 1923 đối tượng, khảo sát điểm đau trên loa tai để phòng và chữa bệnh, khảo sát sơ đồ loa tai, chẩn đoán với máy dò huyệt ở taSau đó, Viện dừng nghiên cứu đề tài này.
Năm 1969, Nhà xuất bản Y học và Thể dục thể thao xuất bản cuốn Nhĩ châm, Thủy châm, Mai hoa châm. Tuy nhiên tài liệu về nhĩ châm vẫn chỉ dừng lại ở mức độ phổ biến một số kiến thức chung nhất.
Công ty Gang thép Thái Nguyên có nhóm nghiên cứu về nhĩ châm của DS Nguyễn Xuân Tiến hoạt động rất tích cực. Ngoài việc cố gắng thu thập tài liệu từ Trung Quốc và của Nogier, nhóm này còn cố gắng tự lực trang bị về các thiết bị cần thiết cho nghiên cứu như máy dò kinh lạc, máy điện châm… Nhóm đã có những bài báo Tình hình phát triển nhĩ châm liệu pháp (Tạp chí Đông y 130/1974), những bài báo về lịch sử, cơ sở khoa học của nhĩ châm….
Trong những năm 81 – 84, Bộ môn YHDT Trường Đại học Y khoa Hà Nội có thông báo về kết quả ứng dụng châm loa tai (trên 1000 ca theo dõi) như sau:
Châm loa tai có hiệu lực điều trị rõ rệt nhiều loại chứng bệnh
Số ngày điều trị không kéo dài, rất ít tai biến.