Y Án Viêm Gan
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương’ q Thượng của Lý Văn Lượng) .
Ngô X, nữ 50 tuổi, ngực nặng tức, đầu mỏi, bụng đầy, đầu váng mắt hoa, tay chân yếu, lúc đói thì tay run, tim hồi hộp, ăn vào thì tim đập nhanh thêm, ợ ra mùi dầu, đi ngoài mỗi ngày nhiều lần. Kiểm tra: gan to 2 ngón, phản ứng Maclagan 9 đơn vị, phản ứng Hanger (+++) , Transaminase 400 đơn vị. Bệnh nhân tỳ vị vốn bị hư yếu, thường bị mờ mắt, bụng chướng, phân lỏng. Viêm gan tái phát, gan to sườn phải đau chướng, mạch Hư Huyền Hoãn, chất lưỡi nhạt, dày. Nguyên nhân bệnh là tỳ hư thấp khốn, can mộc không phát huy được uất, ‘can có tà, khí của nó chạy ở 2 bên sườn’, ‘gan to, ắt nghịch vị bức yết, bức yết ắt khô cách trung, làm cho sườn đau’. Tà chính tương bác, can tỳ thương tổn, nên dùng phép sơ can thực tỳ, vận hóa khí cơ. Cho uống ‘Gia Vị Thư Can Ẩm’ (Tử đan sâm 10g (sao rượu) , Hàng bạch thược 10g (sao rượu) , Phiêu bạch truật 9g (sao đất) , Tây chỉ xác 6g (sao cám) , Xuyên uất kim 6g, Thanh bì 5g (sao dấm) , Bắc sài hồ 5g, Chích cam thảo 6g, Mạch nha (sao) 9g, Sinh bắc tra 6g, Kê nội kim 5g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang) . Uống hơn 50 thang, các chứng đều hết. Kiểm tra lại chức năng gan đều bình thường.
Bàn luận: ‘Gia Vị Thư Can Ẩm’ là bài thuốc bổ mà không cần kíp, sơ mà không kích, đã dùng nhiều đều có công hiệu. Sau khi dùng thuốc ‘Gia Vị Thư Can Ẩm’ mấy ngày, nếu như đau ở vùng sườn phải vẫn lan ra phía lưng, tay chân mỏi, đêm ngủ nóng hầm hập ra mồ hôi, đó là can âm bất túc, can khí tán mà không kề lại, hư dương tản ra mà không thu lại, có thể dùng tiếp Dưỡng Can Ẩm (Tử đan sâm 10g (sao rượu) , Hàng bạch thược 10g, Sơn thù du 6g (bỏ hột) , Thanh bì 5g (sao dấm) , Xuyên uất kim 5g, Mẫu lệ 12g (sắc trước) , Mạch nha (sao) , Chích cam thảo 5g) . Bài này làm thu tán, tăng sự nuôi dưỡng, tức là theo ý ‘cấp thì phải hoãn, tán thì phải thu, tổn thì phải ích’. Đối với bệnh nhân can uất tì hư, tinh thần ngưng uất mà có các triệu chứng kiểu viêm gan không vàng da như trên thì phải nghĩ đến Sài hồ ‘đạt uất cánh việt hư dương’, lại nghĩ đến Bạch truật ‘vận tì hữu thương can âm, cam toan liễm âm’, bài này như thế là được.
Y Án Viêm Gan Mạn
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương’ q Thượng của Lý Văn Lượng) .
Trịnh XX, nam, 45 tuổi, Viêm gan mạn tính đã quá 7 năm. 3 năm trước kiểm tra đã từng phát hiện thấy HAA dương tính, 1 năm nay chuyển âm tính. Người bệnh chóng mặt, vùng gan có lúc đau, mỏi mệt, người béo phì, miệng khô đắng, bứt rứt không ngủ, lưỡi đỏ rêu mỏng vàng hơi bẩn, mạch Huyền Tế Sác. Gan dưới bờ sườn 1cm, độ cứng I-II, không sờ thấy lách, Transaminase trên 500 đơn vị, phản ứng Hanger (+++) , HAA (-) , AFP (-) , chẩn đoán là viêm gan mạn tính tồn tại. Đây là thuộc bệnh can thận âm hư cộng thêm thấp, nên trị bằng phép dưỡng âm, bổ can thận, lợi thấp. Dùng ‘Tam Oâ Nhân Trần Thang Gia Vị’(Thủ ô 15g, Ô đầu y 9g, Miên nhân trần 15g, Đơn bì 9g, Thuyền y 4g, Sinh địa 12g, Đương quy 4g, Cam thảo 6g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang) , uống được 1 tháng thì Transaminase còn 210 đơn vị, các chứng nói trên đều chuyển biến tốt. Lại dùng bài trên gia giảm thêm 1 tháng nữa, toàn bộ chức năng gan trở lại bình thường.
Y ÁN VIÊM GAN MẠN TẤN CÔNG
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương’ q Thượng của Lý Văn Lượng) .
Lý XX, nữ, 38 tuổi, chẩn bệnh ngày 18-5-1974. Từ tháng 1-1975 mắc bệnh viêm gan cấp thể vàng da, nằm viện điều trị 3 tháng, khỏi về cơ bản, xuất viện. Năm 1974 tái phát, lại nằm viện 5 tháng, lúc đó Transaminase không giảm, có lúc lên tới 600 đơn vị, bệnh nhân đã xin lên nằm bệnh viện tỉnh. Kiểm tra gan to, gan dưới bờ sờn 2cm, sờ chưa thấy lách. Transaminase 560 đơn vị, phản ứng Maclagan 20 đơn vị, phản ứng Hanger (+++) , chỉ số hoàng đản bình thường. Chẩn đoán chính xác là viêm gan mạn tấn công. Bệnh nhân còn thấy hai bên sườn đau chướng, ăn uống không ngon, buồn nôn, tinh thần mệt mỏi, đại tiện lúc loãng lúc khô, tiểu tiện vàng đỏ, miệng đắng, họng khô, có máu mủ, lòng bàn tay nóng, lưỡi đỏ, rêu trắng bẩn, mạch Huyền hơi Sác. Đó là can đởm uất nhiệt, vị không còn chức năng hòa giáng, chữa bằng phép sơ can, giải uất, thanh nhiệt, hòa vị. Cho dùng ‘Gia Vị Tứ Nghịch Tán (Thang) ’ (Sài hồ 10g, Bạch thược 10g, Chỉ thực 10g, Uất kim 10g, Đan sâm 10-15g, Thần khúc 10g, Mạch nha 15g, Liên kiều 10-15g, Bản lam căn 15-20g, Hoắc hương 10g, Cam thảo 5g, Mao căn 10g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang) , bệnh nhân uống 30 thang, kiểm tra lại chức năng gan Transaminase 125 đơn vị, phản ứng Maclagan 7 đơn vị, phản ứng Hanger (+) , các chứng khác đều hết. Lại uống lại trên 20 thang, kiểm tra lại chức năng gan thì toàn bộ hồi phục như thường. Theo dõi 5 tháng cha thấy có biến đổi gì khác thường.
Bàn luận: Dùng ‘Gia Vị Tứ Nghịch Tán (Thang) ’ tùy bệnh nhân mà gia giảm, đối với viêm gan thể không vàng da, thể vàng da (sau khi về cơ bản đã hết vàng da) , viêm gan mạn tính và men Transaminase không giảm, đều có tác dụng tốt. Đã dùng bài này cho hơn 50 người bị các bệnh kể trên kết quả rất tốt.
Y ÁN VIÊM GAN MẠN
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương’ q Thượng của Lý Văn Lượng) .
Trần XX, nam 23 tuổi đến khám tháng 5 năm 1971. Năm 1964, bệnh nhân bị bệnh viêm gan do virus cấp tính, đã điều trị nửa năm tại một bệnh viện, các triệu chứng và các chức năng gan đều đã có chuyển biến tốt và ra viện. Nhưng xuất viện mấy năm rồi vẫn thường đau ở vùng gan, khi mệt nhọc lại càng đau thêm. Tháng 10-1970 bắt đầu thấy đau ở vùng lách, đến tháng 5-1971 hai bên sườn đau nặng thêm, tay chân bải hoải, không muốn ăn uống, đại tiện lỏng, lòng bàn chân tay nóng. Khám thấy tình trạng nói chung còn khá, bờ gan trên ở giữa sườn số 5, bờ dưới ở 2 cm dưới mép sườn trên đường vạch giữa đòn, chất gan mềm sờ đau, có thể sờ được lách tới 1cm, sờ hơi đau, mu bàn tay phải có thể thấy bờ răng cưa. Xét nghiệm: chức năng gan trong phạm vi bình thường, tiểu cầu 120.000/mm3. Rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Hoạt. Cho dùng ‘Ích Can Thang’ (Đảng sâm 12g, Bạch truật (sao) 10g, Thương truật (sao) 10g, Hoắc hương 10g, Nhân trần 15g, Đương quy 12g, Hương phụ 10g, Phật thủ 10g, Sơn tra 15g, Trạch lan 15g, Sinh mẫu lệ 15g, Vơng bất lưu hành 12g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang) . Trong quá trình điều trị, đã gia giảm sử dụng Bội lan 10g, Sinh dĩ mễ 15g, Hồng hoa 12g, Miết giáp 12g. Đồng thời dùng cả các thuốc tây trợ gan. Sau hơn 2 tháng dùng thuốc thấy các triệu chứng đã chuyển biến tốt, ăn ngủ và đại tiểu tiện bình thường, chân tay đỡ bải hỏai, lòng bàn tay chân không còn nóng, giảm hẳn đau ở vùng gan tì, gan ở dưới sườn 1cm, sờ không thấy đau rõ, chưa sờ thấy lách. Xét nghiệm lại chức năng gan cũng chưa thấy gì khác thường, tiểu cầu tăng lên tới 168.000/mm3. Sau đó dùng bài trên làm thành hoàn mà uống để củng cố tác dụng về sau.
Bàn luận: Bệnh nhân này sưng gan và lách, xét nghiệm chức năng gan bình thường mà chân tay lại bải hỏai, không thích ăn uống, đại tiện lỏng, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Hoạt. Đó là các chứng thuộc can uất tỳ hư, khí trệ huyết ứ, hai bên sườn đau chướng, mạch Hoạt, chứng tỏ là thấp nhiệt chưa thanh. Bởi vậy trong sự phù chính thì nặng về kiện tỳ thư can. Trong bài có Đảng sâm, Thương truật, Bạch truật (sao) để kiện tỳ, táo thấp; Đương quy, Bạch thược dưỡng huyết nhu can, lại phối hợp các thuốc sơ can lý khí và hoạt huyết hóa ứ. Khí hành ắt là huyết dễ hoạt, huyết hoạt ắt ứ dễ trừ, như vậy có thể có hiệu lực điều trị mong muốn.