Thận dương hư (Thận dương bất chấn)
Triệu chứng:Sắc mặt ảm đạm, tóc dụng, sợ lạnh, chân tay lạnh, thở ngắn hơi, xuyễn tinh thần mệt mỏi, tai ù, điếc, răng lợi lung lay, lưng gối mỏi đau (nhẽo mềm), đái ít, phù thũng hoặc đêm hay đi đái, nước đái vàng hoặc trong, ra mồ hôi, lưỡi béo nón, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch hư phù, hoặc trầm trì ( vô lực. Nếu mệnh môn hoả suy thì liệt dương, hoạt tinh (không mộng mà xuất), ỉa chảy mãn tính, tứ chi lạnh hoặc hụt hơi, hen mà ra mồ hôi xích mạch nhược hoặc vi tế trầm trì (. Nếu đi đái nhiều hoặc đái không cầm, hay đái đêm, đái xong còn rớt không dứt, hoặc tinh xuất sớm, lưỡi non, rêu trắng, xích bộ nhược là thận khí không có.
Bệnh lý:Thận khai khiếu ở tai, biến hoá ở tóc, thận khí không đủ, làm cho tai ù, điếc, tóc dễ dụng. Thận chủ xương, thận khí không đủ làm cho lưng gối mỏi đau, răng lợi lung lay. Thận hư không thể nạp khí về thận thì hụt hơi mà xuyễn. Thận dương hư làm cho dương khí toàn thân hư, chi thể không ấm, tự ra mồ hôi (dương hư nên biểu không chắc) tinh thần không phấn chấn, đại tiện lỏng; dương hư làm thuỷ bị sai lạc (thận hư thuỷ phiếm) thì đái ít mà phù thũng. Mệnh môn hoả suy thfi hư hàn càng nhiều, làm cho tứ chi lạnh, liệt dương hoạt tinh. Tảng sáng ỉa chảy là chứng của mệnh môn hoả suy. Mệnh môn hoả suy cũng thường kiêm không thể nạp khí, nên kiêm thấy hụt hơi, suyễn, ra mồ hôi. Nếu thận khí bất cố (không giữ vững) thì không có sức thu nhiếp (làm cho hoạt tinh, sớm xuất, tiểu tiện nhiều hoặc không cầm. Nói chung thận dương hư, mạch thường hư phù mà rêu lưỡi trắng nhuận, nếu dương hư thuỷ phiếm thì lưỡi tất phì nộn (béo non) mà mạch trầm vô lực. Nếu trầm, trì thiên về rất hàn.
Phép chữa:Nên ôn bổ thận dương, thường dùng Kim quỹ thận khí hoàn gia giảm. Nếu bệnh môn hoả suy, ỉa chảy là chủ chứng thfi dùng Tứ thần hoàn. Nếu hụt hơi, khí suyễn là chủ chứng thì dùng Mạc tích đan.
Thận khí bất cố thì bổ thận cố sáp (giữ chắc chắn). Nếu đái nhiều là chủ chứng thì dùng Súc tuyến hoàn. Nếu di tinh là chru chứng thì dùng Cố tinh hoàn.
Cơ năng vỏ tuyến thượng thận giảm, cơ năng tuyến giáp giảm, thần kinh suiy nhược thuộc về thận dương hư, có thể dùng phép trên. Viêm thận mãn thuộc thận dương hư, nên bổ thận dương kèm lợi tiểu dùng Kim quy thận khí hoàn gia Ngưu tất, Xa tiền. Hen phế quản thuộc thận dương hư không nạp khí, dùng Kim quy thận khí hoàn gia Hồ đào nhục, Ngũ vị tử. Nếu thấy xuất hiện mệnh môn hoả suy, không nạp khí thì dùng Mạc tích đơn.
Bệnh đái đường, đái tháo, viêm thận mãn, đái dầm thuộc về thận khí bất cố dùng Súc tuyến hoàn mà chữa. Đái tháo nên châm cứu huyệt Tam âm giao, Quan nguyên, Thận du, Khí hải. Thần kinh suy nhược thuộc về thận khí bất cố, có thể dùng Cố tinh hoàn, Đái dầm nên châm các huyệt Quan nguyên, Thận du, Tâm âm giao, kèm thêm có cứu nữa.