HUYỆT CHÁNH DINH 

正營穴
G 17 Zhengying (Tcheng Ing, Tching long)

HUYỆT CHÁNH DINH
HUYỆT CHÁNH DINH

Xuất xứ của huyệt Chánh Dinh:

«Giáp ất».

Ý nghĩa Tên gọi của huyệt Chánh Dinh:

– “Chánh” có nghĩa là đúng hay chính xác.
– “Dinh” có nghĩa ở đây là gặp nhau.
Huyệt là nơi gặp nhau của Túc Thiếu-dương Đỏm kinh và Dương-duy mạch. Do đó gọi là Chánh dinh
Theo “Kinh huyệt thích nghĩa hội giải” ghi rằng: “Huyệt ở phía sau Mục song 1 thốn, hội của Túc Thiếu-dương và Dương duy. Huyệt ở ngay trên đỉnh được gọi là khí của hai mạch Túc Thiếu-dương và Dương-duy dinh kết (tinh hoa kết lại) nên được gọi tên”.
Tên đọc khác :Chính dinh
Huyệt thứ 17 Thuộc Đồm kinh
Đặc biệt: Hội của Túc Thiếu-dương kinh và Dương-duy mạch.

HUYỆT CHÁNH DINH
HUYỆT CHÁNH DINH

Mô tả huyệt của huyệt Chánh Dinh:

1. VỊ trí xưa :

Sau huyệt Mục song 1 thốn (Giáp – ất).

2. Vị trí nay:

Xác định huyệt Đầu Lâm-khấp ở khớp xương sọ, đo thẳng lên 3 thốn. Huyệt ở trên đường nối Đầu Lâm-khấp và Phong trì.

3. Giải phẫu, Thần kinh Dưới huyệt:

là cân sọ. Dưới nữa là xương đỉnh sọ – Chi phối bỏi dày thần 1 h so não v3.

HUYỆT CHÁNH DINH
HUYỆT CHÁNH DINH

Tác dụng trị bệnh của huyệt Chánh Dinh :

1. Tại chỗ :

Đau nửa đầu.

2. Theo kinh:

Đau đầu cứng cổ, đau mắt, đau răng.

3. Toàn thân:

Xoàng đầu, nôn mửa.

Lâm sàng của huyệt Chánh Dinh:

Kinh nghiệm hiện nay Phối Phong trì, Thái dương, Ân đường trị xoàng đầu hoa mắt. Phối Ngoại quan, Phong trì, Dầu duy trị đau nửa đầu. Phối Hạ quan, Thái dương, Hợp cốc trị cúng hoặc mỏi khớp hai hàm răng.

HUYỆT CHÁNH DINH
HUYỆT CHÁNH DINH

Phương pháp châm cứu:

1. Châm Xiên, 0,5 – 1 thốn.
2. Cứu 5 lửa.
3. Ôn cứu 5-15 phút.

Tham khảo của huyệt Chánh Dinh:

1. «Giáp ất» quyển thứ 12 ghi rằng: “Đau lỗ cối răng trên, hoặc phong hàn, dùng Chánh dinh làm chủ”.
2. «Đồng nhân» ghi rằng: “Chánh dinh trị đau răng, cứng miệng mép, đau răng lỗ cối, dau bên đỉnh đầu, châm vào 3 phân, cứu 5 lửa”.
3. «Thánh tế» ghi rằng: “Khi châm cứu không được gây tốn thương, nếu bị sẽ suy nhược cơ thể và mắt mờ dần”.
4. Quan hệ với vị trí huyệt này, “Khảo huyệt biên”, “Kim giám”, “Đại thành” quyên thít 7 ghi rằng ở sau huyệt Mục song 1,5 thốn.
5. Căn cữ theo “Giáp ất” ghi rằng huyệt này là nơi hội của Túc Thái-dương, Thiếu dương, Dương duy.

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.