BỆNH CHỨNG KINH QUYẾT ÂM
(can, tâm bào)
Quyết âm là giai đoạn cuối cùng của tam âm bệnh. Hàn tà xâm nhập quyết âm đương nhiên là hàn hoá đến tột bực, nhưng theo quy luật “Bất cực tắc phản” và “Âm cực dương sinh” mà tạo hoá đối với sinh lý của sinh vật đã sắp sẵn cho quyết âm can tạng có điều kiện làm được chức năng trên. Theo học thuyết lục kinh thì quyết âm can chủ về phong mộc, thiếu âm đởm chủ về tướng hoả làm biểu lý cho nhau. Nếu khi hàn tà xâm nhập đến quyết âm mà khí cơ của can, đởm chưa đến nỗi suy yếu, vẫn giữ được bản chất phong hoá thì dương khí có thể trỗi dậy để tự cứu, hiện tượng ấy thường phát ra chứng nhiệt. Phần bị hàn tà xâm nhập, phần vì chính khí ở can tạng trỗi dậy mà chứng trạng hiện ra có.
Chứng hàn lại có chứng nhiệt là rất phức tạp, nhưng theo quy luật tự nhiên thì bao giờ nhiệt cũng bốc lên mà hàn cũng chìm xuống thành thượng nhiệt hạ hàn.
Quyết âm bệnh là giai đoạn cuốĩ cùng của chính khí đấu trang với tà khí: chính khí thắng thì phát nhiệt (nóng), tà khí thắng thì phát quyết (hàn lạnh). Quá trình đấu tranh xen kẽ đó gây nên hiện tượng hàn nhiệt thắng phục.
Tuy kinh này chứng trạng lẫn lộn phức tạp nhưng trên cơ bản có thể chia ra làm bốn loại chính: thượng nhiệt hạ hàn, quyết nhiệt thắng phục.
Thượng nhiệt hạ hàn:
Đề cương của quyết âm bệnh là: tâm phiền, khí nghịch, thương xung phạm vào tâm, trong tâm nhức nhối nóng, đói mà không muốn ăn, ăn thì nôn ra giun đũa, hạ nhầm thì sinh ra chứng đi ngoài lỏng. Đó là hiện tượng thượng nhiệt hạ hàn. Quyết âm can tạng thuộc về phong mộc, mà tính năng của mộc là cứng cáp và đi lên, lại có thiếu dương tướng hoả là đởm phủ luôn luôn phụ họa, cho nên cần phải có thận thuỷ luôn luôn bồi dưỡng mới khỏi phát ra nhiệt chứng. Nhưng trong khi có quyết âm bệnh thì thân tạng đã hư nhược từ trước, do đó thận thuỷ không đủ dưỡng can mà thành ra phong hoả hoành hành, chẳng những phát triển đến mức trên phát, còn vì tính đi lên của nó mà thành ra có trạng thái nghịch khí thượng xung. Theo quy luật “Đồng khí tương cầu” tâm thuộc hoả, mộc sinh hoả, vả lại thử quyết âm là tâm bào, cho nên trạng thái nghịch thư thượng xung có tính cách nghiêm trọng là phạm vào tâm làm cho tâm nhức nhối nóng không như trạng thái nghịch xung của các chứng khác. Phong mộc hoành hành thì tỳ vị bị bệnh (mộc khắc thổ) gây thượng nhiệt làm cho trong ngực cồn cào như đói nhưng không muốn ăn, giá có ăn cũng không ăn được, trong dạ dày trông rỗng giun đói ngoi lên, ăn thì nôn ra giun, hạ tiêu hư hàn, cho nên hạ nhầm thì sinh ra chứng đi ngoài lỏng không chỉ.
Tiêu khát là chứng uống nước nhiều mà vẫn khát. Chứng tiêu khát của quyết âm là bệnh thượng nhiệt hạ hàn, tuy thượng có nhiều hiện tượng hư nhiệt, lưỡi dỏ, ngực nóng, nhưng mạch vi, sợ rét mà chân tay lạnh, khac hẳn với chứng tiêu khát của Bạch hổ thang mạch hồng đại, sợ nóng, tự ra mồ hôi. Chứng tiêu khát của Ngũ linh tán tiểu tiện không lợi mạch phù, phát sốt, uống nước vào lại nôn ra ngay.
Phép chữa dùng ồ mai hoàn vừa thuộc hàn, vừa thuộc nhiệt, làm ấm nội tạng mà yên được giun đũa.
Ô mai hoàn:
Ô mai | 60 quả | an hồi chỉ khát |
Tế tân | 24g | ôn lý hàn |
Can khương | 40g | ôn trung, tán hàn |
Hoàng liên | 40g | thanh tâm hoả |
Phụ tử | 24g | ôn thận |
Đương quy | 20g | bổ huyết |
Thục tiêu (xuyên tiêu) | 24g | hành khí, ôn trung |
Quế chi | 24g | ôn tán hàn tà |
Nhân sâm | 24g | bổ khí, kiện tỳ |
Hoàng bá | 24g | thanh nhiệt ở hạ tiêu |
Làm hoàn với mật ong mỗi ngày uống 10g. Bài này ngoài tác dụng trên còn chữa được bệnh lỵ hàn và bệnh đau dạ dày thể thiểu toan.
Báo Trung y Trung Quốíc đảng bài này chữa được chứng giun chui ống mật có kêt quả tôt.