Chứng Khí hư theo Đông Y là gì?
-
Khái niệm:
Chứng Khí hư là tên gọi chung, chỉ công năng Tạng Phủ trong cơ thể bị giảm sút, nguyên khí bất túc dẫn đến xuất hiện những chứng trạng hư yếu toàn thân; nguyên nhân thương do tuổi cao, sau khi mắc bệnh, hoặc ăn uống mệt nhọc nội thương, hoặc do phú bẩm cơ thể bất túc là những nhân tô’ chủ yếu gây nên; thuộc phạm vi Hư chứng.
Biểu hiện chủ yếu trên lâm sàng là tinh thần mệt mỏi yếu sức, đoản hơi, tiếng nói nhỏ, hụt hơi biếng nói, kém ăn hoặc sắc mật trắng bệch, hoa mắt chóng mặt, hồi hộp tự ra mồ hôi, chất lưỡi nhợt, mạch Hư Tế vô lực.
Chứng Khí hư có thể thấy trong các loại hư tổn của Tạng Phủ, nhất là bệnh biến trong các bệnh “Năm Tạng hư chứng”, “Biểu vệ không bền”, “Suyễn chứng”. V .V. Cần phân biệt, chứng Khí hư với “chứng Dương hư” và “Chứng Khí hãm”.
-
Phân tích
Chứng Khí hư trên lâm sàng, ngoài những đặc trưng thường như tinh thần mỏi mệt và đoản hơi, còn tuỳ theo bộ vị Tạng Phủ phát bệnh khác nhau mà có những biểu hiện không giống nhau.
– Như Phế khí hư, do Phế chủ khí, công năng bị suy thoái ảnh hườna đến tác dụng tuyên tán và túc giáng, xuất hiện các chứng trạng chủ yếu như đoản hơi, tinh thần mỏi mệt biếng nói, tiếng ho ảnh hưởng đến tác dụng tuyên tán và túc giáng, xuất hiện các chứng trạng chủ yếu như đoản hơi, tinh thần mỏi mệt biếng nói, tiếng ho khó khăn, khạc đàm yếu, sợ gió, tự ra mồ hôi, rất dễ cảm mạo: điều trị theo phép bổ ích Phế khí, dùng bài Bổ Phế thang (Vĩnh loại kiềm phương) gia giảm.
-Tỳ khí hư, do Tỳ chủ vận hoá, công năng bị suy thoái đến nỗi chất tinh vi của thuỷ cốc không phân bố được, nguồn sinh hoá bị chèn ép, xuất hiện các chứng trạng chủ yếu như ăn kém không thấy ngon, tinh thần mỏi mệt yếu sức, bụng chướng đầy, đại tiện lỏng nhão; điều trị nên kiện Tỳ ích khí, dùng bài Sâm linh bạch truật tán (Hoà tễ cục phương) gia giảm.
-Can khí hư, do Can chủ sơ tiết, công năng bị suy thoái ảnh hưởng tới sự sinh phát của Can khí, xuất hiện các chứng trạng chủ yếu như đoản hợi, tâm phiền, hồi hộp không yên. Đởm khiếp, đắng miệng; điều trị nên bổ khí ích trí làm mạch Can Đởm, dùng bài An thần định trí hoàn (Y học tâm ngộ) gia giảm.
-Thận khí hư, do Thận chứa tinh, công năng nạp khí bị suy thoái, Thận tinh không hoá khí để nuôi thân hình, xuất hiện các chứng trạng chủ yếu như lưng gối mềm yếu, chóng mặt ù tai, hễ động làm là thờ gấp, di tinh đái dầm, tiểu tiện trong dài v.v. điều trị nên bổ ích Thận khí, dùng bài Đại bổ nguyên tiễn, (Cánh nhạc toàn thư) hoặc Sâm cáp tán (TrungV lâm sàng phương tễ thù sách) gia giảm.
Đương nhiên vì Tạng Phủ có mối liên hệ với nhau, bệnh biến của năm Tạng cũng có thể ảnh hưởng lẫn nhau, xuất phát từ quan niệm chỉnh thể trong biện chứng lâm sàng thấy biểu hiện sự cùng mắc bệnh giữa Tạng với Tạng giữa Phủ với Phủ như “Tâm Tỳ khí hư “ Phế Tỳ khí hư”, “Tì Vị khí hư”, “Tâm Đảm khí khiếp”, “ Phế Thận đều hư”.
-Lại có trường hợp do khí hư mà gây nên “Biểu vệ không bền”, vì Vệ khí không làm bền phần Biêu, làm lý không kín đáo, ngoại tà nhân chỗ hư mà xâm nhập, xuất hiện các chứng trạng sợ gió tự ra mổ hôi, dễ bị cảm mạo, lỏng tóc dựng đứng v’. V. điều trị nên ích khí làm bền phần biểu, chọn dùng bài Ngọc bình phong tán ( Đan Khê tâm pháp) giạ giảm.
– Chứng khí hư gặp trong Suyễn chứng, thời kỳ dầu chủ yếu là Phế khí hư, biểu hiện chứng trạng khái suyễn, đoản hơi. vé nguyên tắc điều trị, phương thuốc cũng giống chứng Phế khí hư; Tiếp theo chủ yếu là Tỳ Phế khí hư, có chứng suyễn gấp đoản hơi, kém ăn đại tiện lỏng, điều trị nên bổ thổ sinh kim, chữa cả Tỳ và Phế, cho uống Bổ trung ích khí thang (Tỳ Vị luận) gia giảm. Cuối cùng thì lấy chủ yếu là Phế Thận khí hư, có chứng trạng thở suyễn phải so vai, thì thở ra nhiều, thì hút vào ít, hễ động làm là suyễn tăng, ra mồ hôi, ớn lạnh chân tay lạnh, dây là do Thận không nạp khí điều trị nên ích Thấn nạp khí, túc Phế bình suyễn, chọn dùng bài Kim Quĩ Thận khí hoàn (Kim quỹ yếu lược) hoặc Nhân sâm hồ đào thang (Tế sinh phương) gia giảm.
Chứng Khí hư, trên lâm sàng nên nắm vững đặc điểm thể chất khác nhau, lứa tuổi khác nhau để biện chứng cho sát. Nói chung có thể chia hai tình huống: Một là Thận khí hư suy. phẩn nhiều do tiên thiên bất túc, phú bẩm suy nhược, nguyên tinh không đầy đủ, tuỷ hải rỗng không gây nên, Thận là gốc của tiên thiên, chứa tinh nguyên để hoá khí thành hình, Thận hư thì cội rễ thiếu thốn, không có gì nuôi tinh để sinh ra xương, cho nên ở trẻ em thì thấy phát dục chậm chạp, răng tóc sinh trường muộn, trí tuệ kém, ăn uống ít, xương mềm, tinh thần uỷ mị, mặt vàng, thê trạng gầy, đại tiện lỏng và đái dầm; ờ người lớn thì mỏi lưng, chóng mặt, tai ù, dương nuy… Hai là Tỳ Vị khí hư, phần nhiều do hậu thiên mất điều hoà, ăn uống không điều độ, trác táng quá mức, sự sinh hoá Tỳ Vị khí mất, khả năng gây nên bệnh.
Vị chủ việc hấp thụ ngấu nhừ đồ ăn, Tỳ chủ việc kiện vận sinh hoá, đón nhận đồ ăn để vận hoá thì nguồn sinh hoá của khí huyết không mất, hình khí đầy đủ mà ‘khoẻ mạnh. Lý Đông Viên cho rằng: Ăn uống không điều độ thì hại Vị, mệt nhọc quá mức thì hại Tỳ… và nêu ra: “sự đầy đủ của nguyên khí đều do khí của Tỳ Vị không tổn thương, mà sau đó mới tu dưỡng được nguyên khí. Nếu cái gốc là Vị khí bị yếu, ăn uống tự tăng lên tùy tiện, thì khí của Tỳ Vị đã bị tổn thương, mà nguyên khí cũng không đầy đủ; tật bệnh từ đó mà sinh ra (Tỳ Vị luận – Tỳ Vị hư thực truyền biến luận ) nhận định khí của Tỳ Vị bất túc là mấu chốt tạo nên chứng Khí hư; Đồng thời nói lên Tỳ Vị khí hư là nguồn gốc thứ nhất về mọi diễn biến của tật bệnh. Cho nên người Tiên thiên bất túc và hậu thiên không điều hoà, rất dễ mắc chứng này. Nhưng hai loại này có nhân quả lẫn nhau, không cắt rời hoàn toàn. Khi lâm sàng biện chứng nên nắm vững chủ, thứ. Cần nói rõ thêm: mùa Hạ nóng nực hầm hập, ép mồ hôi ra ngoài, rất dễ hao thương nguyên khí; Thích chí luận sách Tố Vấn nói “Khí hư minh nóng đó là thương thử. Cho nên thấy đoản hơi, ra mồ hôi, tinh thần mỏi mệt ở chứng này”.
Trong quá trình diễn biến tật bệnh của chứng này, có thể biểu hiện những chứng trạng lẫn lộn. Ví dụ do khí hư mà sự vận hành không thư sướng, có thể là “khí hư trướng bụng” có chứng trạng trướng bụng thiểu khí, đại tiện lỏng loãng; Do khí hư mà ngoại tà xâm nhập, có thể là “khí hư phát nhiệt” xuất hiện các chứng trạng cảm mạo phát nhiệt, xu thế. nhiệt hoặc cao hoặc thấp, mỏi mệt đoản hơi; Do khí hư mà Tỳ vận hóa không mạnh, đàm thấp tụ ở trong, có thể là “khí hư đàm thấp” có chứng trạng khái thấu đoản hơi, đờm nhiều mà nhớt, kém ăn, tinh thần mỏi mệt; Do khí hư mà tân dịch không phân bố khiến cho tạng phủ, cơ nhục và bì mao khồng được ấm áp mềm mại, có thể là”khí không sưởi ấm” có chứng trạng gầy còm, tinh thần mỏi mệt, bì mao không nhuận, thể ôn hạ thấp, sức chống bệnh giảm sút, V. V..
Do khí hư không hoá được thuỷ, ảnh hưởng đến công năng khí hoá của Tỳ, Phế, Thận và Tam tiêu, có thể là “khí hư nước tràn lan” xuất hiện chứng thuỷ thũng, tiểu tiện không lợi, nước tiểu giỏ giọt không dứt hoặc long bế; Do khí hư không thống nhiếp được huyết dịch, có thể là “khí không nhiếp huyết”, có chứng trạng đổ máu mũi, khạc ra máu, thổ ra máu, tiểu tiện ra máu, đại tiện ra máu, xuất huyết dưới da, có mối liên hệ âm dương hỗ căn với nhau, cho nên khí hư mà không sinh hoá được huyết dịch, ảnh hưởng tới sự nương tựa sinh sôi của huyết, có thể là “khí huyết đều hư”, xuất hiện các chứng trạng chóng mặt hoa mắt, sắc mặt không tươi, hụt hơi biếng nói, hồi hộp, không nghĩ gì đến ăn uống, mạch Tế, chất lưỡi nhợt bệu. vì khí hư lâu ngày, nguyên khí tổn thất lớn, còn có thể biểu hiện các tình huống “trung khí hạ hăm”, “khí âm đều hư” và “nguyên khí hư thoát” không thể nói hết được ở đây. Tóm lại vì bệnh tật biến hoá của chứng này rất nhều, lâm sàng cần phân tích tiêu bản, trước sau, hư thực của chứng hậu mà phân tích.
-
Chẩn đoán phân biệt
– Chứng Dương hư với chứng Khí hư, cả hai đều biểu hiện hư chứng toàn thân, bộ vị bệnh biến trên lâm sàng cũng tương tự. Nhưng mà khí thuộc Dương, Dương hoá khí, Dương hư là chỉ Dương khí hư. Cho nên hai chứng này có mối liên hệ nhân quả lẫn nhau; phân biệt theo nguyên nhân và bệnh cơ thì hai chứng này đểu phú bẩm bất túc, nội thương ăn uống mệt nhọc, hoặc do tuổi già, sau khi ốm … là những nhân tố tạo nên nguyên khí bất túc, công năng của Tạng Phủ suy thoái dẫn đến Hư chứng. Nhưng hàn tà xâm phạm rất dễ thương Dương, làm trở ngại sự vận hành của Dương khí, đó lại là một nhân tố chủ yếu dẫn đến chứng Dương hư; phân biệt theo biểu hiện lâm sàng thì cả hai đều có những chứng trạng tinh thần mỏi mệt, đoản hơi, biếng nói, thanh âm thấp, tự ra mồ hôi, chất lưỡi nhạt. Còn chứng Khí hư thì lấy chữ “Hư” làm chủ yếu, hiện tượng hàn không rõ ràng, mà chứng Dương hư thì có đủ các đặc trưng “Hư hàn”, đây là điểm chú yếu trong chẩn đoán phân biệt. Chứng khí hư có thể thấy tấu lý thưa hở không kín đáo, xuất hiện các triệu chứng sợ gió; Chứng Dương hư thì do dương khí không ấm áp và nung nấu bốc lôn , xuất hiện các triệu chứng cơ thể và chân tay lạnh. Chứng khí hư mạch Hư Tế vô lực. Chứng Dương hư mạch Trầm Tế hoặc Tế Trì. Chứng khí hư tiểu tiện vô lực hoặc di niệu, đại tiện lỏng loãng. Chứng Dương hư tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng, nặng hơn thì Tỳ Thận dương hư, còn thấy các chứng đại tiện lỏng ra nguyên đồ ăn không tiêu và thuỷ thũng. Như vậy thì thấy, Khí hư phát triển thêm một bước có thể dẫn đến Dương khí hư, Dương khí hư phải có đủ các biểu hiện của Khí hư. Qua phép điều trị thì thấy, nguyên tắc điều trị chứng Khí hư là bổ khí, nguyên tắc điều trị chứng Dương khí hư là ôn dương ích khí.
– Chứng Khí hãm với chứng Khí hư, cả hai đểu là Hư chứng do nguyên khí bất túc. Chứng Khí hãm là biểu hiện một loại bệnh biến của Khí hư trên lâm sàng, nó phản ảnh cụ thể sự nâng lên vô lực của Khí, và nó cũng có liên quan đến khí nâng lên vô lực của Tạng Phủ Tỳ, Vị, Thận, Bàng quang, Đại trường, hai mạch Xung Nhâm và Kinh Lạc. Cho nên chứng Khí hãm không chi có đầy đủ một số biểu hiện của chứng Khí hư, mà còn đột xuất nổi lên những đặc trưng trung khí hạ hãm, cơ quan phần dưới cơ thể không bền. nguyên khí nâng lên vô lực. Điểm chủ yếu để phân biệt giữa hai chứng nàv là:
-1 ) Đều có biểu hiện về khí hư, nguyên khí bất túc, công năng của Tạng Phủ bị giảm sút nhưng chứa Khí hãm chủ yếu là lấy nguyên khí nâng lên vô lực, trung khí hạ hãm.
– 2) Chứng Khí hư có biểu hiện lâm sàng toàn thân, có thể tuỳ theo tật bệnh và bộ vị của Tạng Phú khác nhan mà biểu hiện chứng trạng bất nhất; mà Chứng Khí hãm chủ yếu là Tỳ Vị trung khí hạ hãm, bộ vị bệnh biến trọng điểm ở Trung, Hạ tiêu, đa số có các chứng trạng bụng’dưới nặng trệ, hạ lợi thoát giang, sa dạ con, băng lậu vv.
-3) Chứng Khí hư chủ yếu là bổ Khí, mà chứng Khí hãm chủ yếu là nân« nguyên khí lẻn…
Y văn trích dẫn
-Trung khí bất túc, biểu hiện biến đổi qua đường đại, tiểu tiện (Khẩu vấn – Linh Kliu).
-Thoát giang hậu: Thoát giang là chỉ giang môn thoát ra ngoài, nguyên nhân phần nhiều do sau khi kiết lỵ kéo dài. Đại trường bị hư nhiễm lạnh gây nên. Giang môn là”hậu” của Đại trường, Đại trường hư mà bị hàn lỵ lại dùng sức rặn quá, khí sẽ dồn xuống làm giang môn thoát ra ngoài; gọi là Thoát giang (Lỵ bệnh chư hậu – Chư bệnh nguyên hậu luận).
-Âm đĩnh xuất hạ thoát hậu: Bào lạc bị thương tổn, dạ con hư lạnh, khí dồn xuống làm âm đĩnh thoát ra, gọi là Hạc thoát. Cũng có khi do lúc đẻ dùng sức dặn quá mức mà âm bộ thoát ra. Khám mạch Thiếu Âm thấy Phù và Động; Phù là Hư, Động là Quý (hồi hộp) cho nên Thoát (Phụ nhân tạp bệnh chư hậu – Chư bệnh nguyên hậu luận)
-Tiểu tiện nhỏ giọt trắng đục, đó là chứng trạng do Trung khí hạ hãm và Mệnh môn không bền (Lâm trọc – Cíinh Nhạc toàn thư).
-Bài Cử nguyên tiễn: Chữa khí hư hạ hãm, huyết băng, huyết thoát và vong dương sắp nguy hiểm (Tân phương bút trận – Cánh Nhạc toàn thư).
-Phụ nữ sau khi hành kinh, giỏ giọt không dứt gọi là Kinh lậu; Kinh nguyệt bỗng dưng ra ào ạt không dứt gọi là Kinh băng … càng có liên quan tới ưu tư thương Tỳ, Tỳ hư thì không nhiếp huyết, cũng có trường hợp do trung khí hạ hãm, không làm bền huyết. (Phụ khoa tâm pháp yếu quyết – Y tông Kim giám).
Lương Y Nguyễn Thiên Quyến