KINH NGUYỆT KHÔNG DỨT (Kinh Đoạn Phục Lai)
Đàn bà sau tuổi 49 thường kinh nguyệt phải hết, nếu vẫn còn dây dưa hoặc lúc có lúc không, hoặc đă hết rồi lại có, đó là dấu hiệu bệnh lý, gọi là chứng Kinh Nguyệt Không Dứt.
Nếu cơ thể khoẻ mạnh, không có dấu hiệu bệnh lý gì xẩy ra, đó là trạng thái bình thường, do khí huyết sung túc mà thôi. Sách ‘Diệp Thị Nữ Khoa’ viết: ‘Tuôỉ 49- 50 mà thiên quý chưa dứt, kinh nguyệt vẫn có, đúng kỳ như xưa không thấy bệnh gì khác thường, đó là do huyết đầy đủ vậy’.
Tương đương chứng Niêm Mạc Tử Cung Quá Sản của Y học hiện đại .
Còn gọi là Niên Lão Kinh Thủy Phục Hành.
Nguyên Nhân
Do kinh mạch bị suy yếu vì lớn tuổi, mệt nhọc quá sức, tính tình vui giận thất thường, lại cảm phải tà khí bên ngoài xâm nhập vào gây nên.
Phụ nữ tuổi 49 trở lên, Thận khí hư yếu, kinh nguyệt kiệt, mạch Thái xung suy giảm, địa đạo không thông vì vậy kinh nguyệt hết. Nếu cơ thể vốn bị khí và âm hư, tà khí phục sẵn bên trong, làm cho mạch Xung Nhâm không vững thì sẽ gây nên bệnh. Thường thấy dưới dạng Khí hư, Âm hư, Huyết hư, Huyết nhiệt và Huyết ứ.
Khí Hư: Cơ thể vốn suy yếu lại lao nhọc quá sức làm tổn thương trung khí, khí bị hư, mạch Xung Nhâm không vững, huyết không được sơ nhiếp gây nên kinh nguyệt hết rồi lại có.
Âm Hư: Lập gia đình sớm, sinh đẻ sớm, âm huyết bị suy kiệt, lại kèm sinh hoạt tình dục không điều độ làm ảnh hưởng đến thận tinh, hoặc người lớn tuổi ưu tư lo nghĩ quá làm hao tổn doanh huyết, âm hư thì sinh nội nhiệt, ảnh hưởng đến mạch Nhâm, Xung, huyết sẽ bị đi bậy gây nên kinh nguyệt không dứt.
Huyết Nhiệt: Cơ thể vốn có dương thịnh hoặc ăn những thức ăn cay, nóng, táo nhiệt uất lại ở bên trong hoặc cảm nhiệt ta hoặc giận dữ làm cho Can hỏa động, hỏa nhiệt làm tổn thương mạch Xung, Nhâm, huyết sẽ đi bậy gây nên kinh nguyệt lúc hết lúc có.
Huyết Ứ: Phụ nữ lớn tuổi, vốn bị hư yếu, khí huyết vận hành không thoải mái lại kèm nội thương do tình chí gây nên, Can khí bị uất kết, khí trệ, huyết ngưng, ngưng lại ở mạch Xung, Nhâm, huyết mới đi không đúng gây nên bệnh.
Điều Trị
Tùy theo nguyên nhân gây bệnh và trạng thái bệnh để trị.
Khí hư hạ hãm: bổ trung ích khí. Khí uất thì giải uất, thanh nhiệt.
Nếu kinh nguyệt lâu ngày không dứt biến thành chứng hư hàn, phải dùng cả phép ôn lẫn phép nhiếp.
Triệu Chứng
Chứng Khí Hư: kinh nguyệt lâu ngày không dứt, người mệt mỏi, hơi thở ngắn, không có sức, kém ăn, mạch Nhược.
Điều trị: Ích khí, kiện Tỳ, cố nhiếp. Dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang (Tế Sinh Phương) (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học).
Bổ khí dưỡng huyết, cố Xung (mạch), chỉ huyết. Dùng bài An Lão Thang (Phó Thanh Chủ Nữ Khoa): Nhân sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Đương quy, Thục địa, Sơn thù nhục, A giao, Kinh giới (sao đen), Hương phụ, Mộc nhĩ (tro), Cam thảo.
(Nhân sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật bổ trung ích khí, cố nhiếp, chỉ huyết; Thục địa, A giao, Đương quy dưỡng huyết, chỉ huyết; Sơn thù thu sáp, chỉ huyết; Hf phụ lý khí, là thuốc thường dùng để bổ khí dưỡng huyết, khiến cho bổ mà không trệ; Kinh giới (sao đen), Mộc nhĩ (tro), ức chế mầu đỏ, tăng tác dụng cầm máu) (Phụ Khoa Trung Y Học).
Chứng Khí Uất: Kinh nguyệt không dứt, hay thở dài, dễ tức giận, hông sườn đau, mạch Huyền.
Điều trị: Sơ Can, giải uất, cố nhiếp. Dùng bài Tiêu Dao Tán.
Nếu huyết hư, có nhiệt dùng bài Đương Quy Tán ‘Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương’: Đương quy (tẩy rượu), Xuyên khung, Bạch thược (sao), Hoàng cầm (sao), Bạch truật (sao) đều 320g, Sơn thù nhục 60g. Tán bột. Mỗi lần uống 12g với rượu.
Hoặc dùng bài Cầm Tâm Hoàn ‘Thụy Trúc Đường Kinh Nghiệm Phương’: Hoàng cầm 80g(ngâm nước cơm 7 ngày, sấy khô, làm như vậy 7 lần rồi tán bột, trộn với dấm làm thành viên 0,1g, mỗi lần uống 70 viên, ngày 3 lần, với rượu nóng.
Chứng Hư Hàn: Kinh nguyệt không dứt, sợ lạnh, tay chân lạnh, tiêu lỏng, mạch Trầm Trì.
Điều trị: Ôn bào cung, tán hàn, cố nhiếp. Dùng bài Tục Đoạn Hoàn ‘Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương’: Tục đoạn, Đương quy, Hoàng kỳ, Ô tặc cốt, Ngũ vị tử, Cam thảo, Long cốt, Xích thạch chi, Thục địa mỗi thứ 40g, Địa du 20g, Ngải diệp, Phụ tử, Can khương, Xuyên khung đều 30g. Tán bột, trộn với mật, làm thành viên to bằng hạt Ngô đồng, mỗi lần uống 30 viên, lúc đói, với rượu nóng.
Chứng Âm Hư: Tự nhiên tắt kinh khoảng 2 năm hoặc hơn rồi lại thấy, kinh ra nhiều, mầu đỏ tươi, ngũ tâm phiền nhiệt, gò má đỏ, đêm ngủ không yên, họng khô, miệng khô, trong âm đạo khô sít hoặc nóng rát, đau, da hoặc bên ngoài bộ phận sinh dục ngứa, táo bón, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Tế Sác.
Điều trị Tư âm, lương huyết, cố Xung (mạch), chỉ huyết. Dùng bài Thanh Huyết Dưỡng Âm Thang (Phụ Khoa Lâm Sàng Thủ Sách): Sinh địa, Đơn bì, Bạch thược, Huyền sâm, Hoàng bá, Nữ trinh tử, Hạn liên thảo.
Chứng Huyết Nhiệt: Tự nhiên tắt kinh 2 năm hoặc hơn, rồi lại thấy, sắc kinh đỏ sẫm, đới hạ ra nhiều, mầu vàng có mùi hôi, lưỡi đắng, miệng khô, tiểu ít, nước tiểu đỏ, táo bón, lưỡi đỏ, mạch Huyền Hoạt.
Điều trị: Thanh nhiệt, lương huyết, cố Xung (mạch), chỉ huyết. Dùng bài Ích Âm Tiễn (Y Tông Kim Giám): Sinh địa, Tri mẫu, Hoàng bá, Quy bản (sống), Sa nhân, Chích cam thảo. Thêm Mẫu lệ (sống) Tây căn, Địa du.
(Sinh địa, Tây căn, Địa du thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết; Tri mẫu, Hoàng bá tư âm, thanh nhiệt, tả hỏa; Quy bản, Mẫu lệ cố Xung mạch, chỉ huyết. Thêm ít Sa nhân để dưỡng Vị, tỉnh Tỳ, hành khí, khoan trung).
Chứng Huyết Ứ: Tự nhiên tắt kinh 2 năm hoặc hơn, rồi lại thấy,mầu kinh đỏ tối, có cục, ra nhiều ít không chừng, bụng dưới đau, không thích ấn vào, hoặc trong bụng có khối u, lưỡi tím tối, mạch Huyền Sáp hoặc Sáp có lực.
Điều trị: Hoạt huyết, hóa ứ,cố Xung (mạch), chỉ huyết. Dùng bài Đương Quy Hoàn (Thánh Tế Tổng Lục): Đương quy. Thược dược, Ngô thù du, Đại hoàng, Can khương, Phụ tử, Tế tân, Đơn bì, Xuyên khung, Mang trùng, Thủy điệt, Hậu phác, Đào nhân, Quế chi.
(Thược dược (Xích thược), Quế chi, Đương quy, Xuyên khung hoạt huyết, khứ ứ; Mang trùng, Thủy điệt khứ ứ, tiêu tích; Đại hoàng, Đơn bì, Đào nhân lương huyết, khứ ứ; Ngô thù du, Can khương, Phụ tử, Tế tân ôn kinh, tán hàn; Hậu phác hành khí, tán kết).