HỘI CHỨNG BỆNH TẠNG PHỦ THẬN VÀ BÀNG QUANG
(Học thuyết Tạng Tượng)
Thận và Bàng Quang
Thận vi tiên thiên chi bản:
+ Công năng sinh lý:
chủ tàng tinh, chủ thủy thận nội tạng có nguyên ầm, nguyên dương. Khi bệnh lý phần nhiều là hư, thường chia hai loại; thận âm hư và thận dương hư, trong đó baó gồm’ sinh dục, tiết niệu, thần kinh, nội tiết. Còn triệu chứng hay gặp ở bàng quang là thấp nhiệt
1.Triệu chứng thận âm hư:
-Đầu choáng, mắt hoa.
-Tai ù, tai điếc.
-Răng đau hoặc lung lay, mất ngủ, môi miệng khô.
-Ngũ tâm phiền nhiệt, đạo hãn (ra mồ hôi trộm).
-Lưng gối đau mỏi, xương đùi, xương ống chân đau, di tinh.
Lười hồng khô hoặc rêu xanh, tiểu tiện ngắn, đỏ, miệng khô về đêm tăng, mạch sác hoặc huyền sác là “âm hư hoả vượng”.
– Thận âm hư:
tân dịch bất túc, tường hoả vượng thịnh nên thấy ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khô (thuộc âm).
– Âm hư tắc dương vượng:
đầu chóng, mắt hoa, tai ù, tai điếc, mất ngủ. Thận chủ cốt, thận âm bất túc làm cho gối mỏi, đau trong xương đùi cổ chân “xi vi cốt chi hư” cốt tủy không thông, rãng lung lay mà đau.
–Thận âm hư:
tinh tân bất cô’ làm cho tự hãn, di tinh “âm hư nặng tắc hư hoả vượng” vì thế xuất hiện lưỡng quyền hổng (gò má dỏ, môi đỏ, tiểu tiện ngắn đỏ) dó là chứng hậu nội nhiệt tân hao. Lưỡi hổng không rêu, mạch tế sác là âm hư. Nếu âm hư hoả vượng phải tư âm giáng hoả trọng dụng “tri bá bát vị hoàn”. Hay gặp trong suy nhược thần kinh, lao phổi, bệnh dái dường, viêm đường tiết niệu, chảy máu tử cung, Dương nuy, hoạt tinh, ỉa chảy mãn tính.
2. Thận dương hư
+ Triệu chứng:
– Sắc mặt ảm đạm.
– Phát dễ thoát lạc (tóc dễ rụng).
– Sợ lạnh.
– Tai ù, tai điếc.
– Lưng gối đau mỏi.
– Phù thũng hoặc tiểu tiện về đêm nhiều.
– Đại tiện lỏng nát, tự hãn.
– Chất lưỡi bệu mềm, rêu hắng nhuận.
– Mạch hư phù hoặc trầm trì vô lực.
– Nếu mệnh môn hỏa suy có thể xuất hiện:
– Tay chân không ấm.
– Đoản khí, suyễn.
– Tinh thần ủ rũ.
– Răng lung lay.
– Tiểu tiện ít.
– Tứ chi lạnh hoặc đoản khí, khí suyễn vã mồ hôi, mạch ở lưỡng xích nhược hoặc vi tế trầm trì, trường hợp tiểu tiện nhiều, đái són, đái nhiều về đêm, sau khi đái nước tiểu còn sót lại, hoạt tinh tảo tiết, lưỡi mềm, rêu trắng, mạch hư trì nhươc là: ’’thận khí bất cố”.
+ Giải thích bệnh lý:
thận khai khiếu ra tai, kỳ hoa tại phát (vẻ đẹp cùa râu tóc, móng tay chân), thận khí bất túc làm cho tai ù, tai điếc, tóc râu dễ rụng. Thận chú cốt, thận dương bất túc làm cho lưng gối đau mỏi, răng lung lay “thận hư bất năng nạp khí quy thận” gây nén đoản khí mà suyễn.
– Thận dương hư khiến toàn thân dương khí đều hư nén chỉ thể không nóng ấm, tự hãn (dương hư biểu bất cố), tinh thần không thoải mái, đại tiện lỏng nát (dương hư thủy phiếm), (thận hư thủy phiếm) tất sinh nước tiểu ít mà phù thũng lại thêm mệnh môn hoả suy tất sinh hư hàn càng nặng làm cho tứ chi quyết lạnh, dương nuy, hoạt tinh, ỉa lỏng sáng sớm là triệu chứng mệnh môn hoả suy.
– Mệnh môn hoả suy:
thận bất năng nạp khí sinh ra khí đoản, khí suyễn và mồ hôi ra nhiều (tự hãn).
Lại nói “thận khí bất cố tắc thu nhiếp bất lực: nên sinh ra hoạt tinh, táo tiết. Chứng tiểu tiện lượng nhiều hoặc đái són là thận đương hư, rêu lưỡi trắng nhuận còn dương hư thủy phiếm thì lưỡi mềm bệu và mạch trầm vô lực, nếu trầm trì là hàn năng hơn thiên.
+ Phương pháp điểu trị: phải bổ thận dương thường dùng phương thuốc kim quĩ thân khí hoàn gia vị. Nếu mênh môn hoả suy thì lấy ỉa lỏng làm chủ chúng phải trọng dụng bài tứ thần hoàn, nhược bằng khí đoản, khí suyễn có thể dùng “hắc duyên đan gia vị”. Nếu thận khí bất cố phải bổ thận để cố sáp niệu, nếu di niệu, di tinh là chính phải dùng bài thuốc cố tinh hoàn.
Liên hộ Y học hiện đại:
Hay gặp trong nhược năng vỏ thượng thận, nhược năng tuyến giáp trạng, suy nhược thần kinh, thận dương hư phải dùng phương pháp điều trị trên. Viêm thận mãn tính cũng thuộc thận dương hư phải dùng bài thuốc ôn bổ thận dương kèm theo lợi thủy.
Dùng kim quĩ thận khí hoàn gia ngưu tất, sa tiền, còn như hen phế quản là thận dương hư không nạp được khí phải dùng kim quĩ Ihận khí hoàn gia hổ đào nhục, ngũ vị tử, nếu mệnh môn hoả suy không nạp khí phải dùng hắc duyên đan. Còn như chứng bệnh đái đường, đái nhạt, viêm thận mãn tính, di niệu do thận khí bất cố phải dùng bài thuốc sá truyền hoàn để điều trị. Ngoài ra còn phải kết hợp châm cứu; thận du – tam âm giao.
3. Thận âm dương lưỡng hư:
– Tâm quí.
– Tầm phiền:
– Tai ù, tai điếc.
– Lưỡi thon hồng
– Triệu chứng chù yếu:
– Sắc mặt ảm đạm.
– Rụng tóc, răng đau.
– Khô miệng.
– Chi lạnh, di tinh.
– Dạ đa tiểu tiện (đái đêm nhiều).
– Mạch trầm tế nhược
– Tâm phiền.
– Tự hãn.
– Sợ lạnh.
– Lưỡi nhợt, co ngắn.
+ Giải thích:
Bệnh lý do âm dương hỗ căn, âm hư lâu ngày dẫn đến dương hư, trái lại dương hú cũng dẫn đến âm hư, nếu thận âm dương đều hư tất nhiên sẽ dẫn đến hai loại chứng hậu.
Khi biện chứng cụ thể cần phải căn cứ vào tình hình cụ thể, chẳng những phân biệt là âm hư nặng hay nhẹ mà còn là dương hư nặng hay nhẹ để chọn dùng thuốc điều trị cho phù hợp.
– Phương pháp diều trị:
Phải âm dương cùng bổ, phải dùng hợp phương bài thuốc; hữu qui ẩm, tả qui ẩm gia giảm. Nếu dương hư nặng hơn thêm hai loại: ba kích, nhục quế, còn âm hư nặng hơn gia qui bản, miết giáp, đan bì.
4. Tâm thận bất giao:
+ Triệu chứng chủ yếu:
– Đầu choáng.
– Mất ngủ, hay quên.
– Lưng gối đau mỏi.
– Mạch tế hoặc tế sác.
+ Giải thích:
tâm và thận tương hỗ chế ước, hỗ tương tự sinh, tương tác tương thành, nếu tâm thận thất điều, xuất hiện các triệu chứng trên.
+ Phương pháp điều trị:
phải dưỡng tâm thận dùng bài lục vị hoàn gia: ngũ vị tử, toan táo nhân, bán hạ chế. Nếu có đái són thêm: liên tu và tả qui ẩm, nếu hư hoả vượng, mất ngủ nặng thêm: hoàng liên, nhục quế tâm (hoàng liên vị đắng vào tâm thanh tâm hoả là chủ dược lại cho quế vào thận để dẫn hoả quy nguyên) tác dụng chính để giao thông tâm – thận gọi là phương thuốc giao tần hoàn (hoàng liên 8g, nhục quế 4g).
Liên hệ với YHHĐ:
Hội chứng và bệnh suy nhược thần kinh thường thuộc tâm thận bất giao.
2.4. Bàng quang thấp nhiệt:
+ Chủ chứng:
phát sốt, đái són, dắt buốt, đau hoặc đái dầm dề, nếu đột nhiên . trung đoạn (đái ngắt quãng), nước tiểu đục hoặc có máu hoặc bên trong có sa thạch (có sạn sỏi), rêu lưỡi vàng hoặc vàng nhờn, mạch sác.
+ Bệnh lý:
bàng quang thấp nhiệt, nhiệt thịnh ở trong gây phát sốt, nếu sợ lạnh là kèm theo biểu chứng, bàng quang thấp nhiệt ở dưới (do rối loạn bài niệu gây nên). Nếu thấp nhiệt nội ẩn lâu ngày tất sinh sỏi niệu (sa thạch), thấp nhiệt quá thịnh tất sinh nục huyết.
– Triệu chứng đặc trưng thấp nhiệt:
rêu lưỡi vàng, mạch sác.
+Phương pháp điều trị:
thanh nhiệt lợi thấp, phải dùng bài thuốc bát chính tán gia: hải kim sa đằng, diệp hạ châu, kim tinh thảo, nếu có sa thạch phải dùng thẽm kim tiền thảo, hải kim sa, nếu niệu huyết phải dùng lương huyết, chỉ huyết, sinh địa, đại tiểu kế, bạch mao căn, tía chau thảo.
+Liên hệ YHHĐ:
viêm đường tiết niệu, sỏi tiết niệu, viêm tiền liệt tuyến đều thuộc về thấp nhiệt ở bàng quang nên có thể dùng bài thuốc bát chính tán hoãc phải thèm nhĩ châm (vùng thận và bàng quang). Nếu lâu ngày thận khí hư phải dùng kim quĩ thận khí hoàn gia: ngưu tất, sa tiền tử.
+ Đặc điểm biện chứng luận trị của thận và bàng quang:
– Bệnh thận ít thực chứng không có biểu chứng, thận hàn là do dương hư mà dẫn đến, thận hỏa vượng là do âm hư. Vấn đề căn bản trong điểu trị là phải bổ thận dương, tư thận âm.
– Thân chủ tàng tinh:
phép bổ dương thường trẽn cơ sờ bổ âm mà gia thêm thuốc. Ví dụ: tên phương thuốc bổ thận dương “kim quĩ thân khí hoàn” tức là trên cơ sở bài lục vị địa hoàng hoàn của phép bổ tu thận ârn. Thêm chế phụ tử, nhục quế để ôn thận dương còn như dương hư quá nậng cũng có thể chuyển hướng phù dương để phối âm nhưng chỉ tạm thời không nên dùng lâu sẽ chuyển sang âm hư.
– Bàng quang và thận tương quan biểu lý, vì vậy chứng bàng quang hư phải bổ thận dương để trị bản, còn trị bàng quang thấp nhiệt có thể trực tiếp thanh lợi ờ bàng quang.