Gãy đầu dưới xương quay

Đặc điểm

Gãy đầu dưới xương quay chiếm khoảng 50% các gãy xương nói chung.

Gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng thường gặp nhất ở tuổi 50-60, nhất là phụ nữ mãn kinh.

Là loại gãy gài, dễ chẩn đoán, dễ liền xương, nhưng việc điều trị không phải là đơn giản.

Phân loại

Dựa vào cơ chế chia 2 loại chính:

Gãy duỗi: do ngã chống tay, cổ tay duỗi là thường gặp nhất. Đại diện cho nhóm này là Pouteau- Colles; đoạn gãy xa di lệch lên trên, ra sau và ra ngoài.

Gãy gấp: do ngã chống tay cổ tay gấp, loại này ít gặp hơn. Đại diện cho nhóm này là Goyrand- Smith; đoạn gãy xa di lệch lên trên, ra trước và ra ngoài.

Ngoài ra còn chia theo vị trí gãy, gồm có:

Gãy ngoài khớp.

Gãy thấu khớp (trong đó có các loại như gãy bờ khớp trước, gãy mỏm trâm).

Gãy Pouteau – Colles và Goyrand – Smith là những gãy xương ngoài khớp, đường gãy đơn giản. Nếu đường gãy phức tạp nhiều mảnh và thấu khớp thì không xếp vào loại gãy này. Nếu một mảnh của bờ khớp trước bị gãy di lệch lên trên, làm trật khớp cổ tay ra trước thì được gọi là kiểu gãy Barton.

Chẩn đoán

Dựa vào:

Bệnh sử: chú ý nguyên nhân, cơ chế và tuổi.

Triệu chứng lâm sàng.

Phim X quang.

Triệu chứng lâm sàng

Triệu chứng cơ năng: đau vùng cổ tay, vận động gấp duỗi hoặc sấp ngửa hạn chế.

Triệu chứng thực thể:

Sưng vùng cổ tay, ít khi thấy bầm tím, nếu gãy thấu khớp sẽ thấy bao khớp căng phồng.

ấn đau nhói ở đầu dưới xương quay.

Biến dạng:

Mỏm trâm quay lên cao, có thể ngang bằng mỏm trâm trụ (dấu Laugier).

Nhìn thẳng: trục cẳng tay kéo dài không qua ngón 3 mà lệch qua ngón 4. Biến dạng này còn được gọi là dấu hiệu lưỡi lê (đúng hơn là lưỡi lê cắm trên đầu súng) hay dấu hiệu bayonet là gãy.

Nhìn nghiêng:

Nếu là gãy duỗi: đầu dưới xương quay lệch ra sau tạo nên biến dạng hình lưng nĩa (hay mu thìa). Nếu là gãy gấp: di lệch ngược lại, cổ tay gấp về phía lòng nhiều hơn.

Ngoài ra cần tìm hiểu thêm các triệu chứng của thương tổn đi kèm:

ấn vào giữa khớp quay- trụ dưới, nếu đau tăng có thể bong khớp quay trụ dưới.

ấn mỏm trâm trụ nếu đau tăng có thể gãy mỏm trâm trụ.

ấn hố lào nếu đau tăng có thể gãy xương thuyền.

ấn phía trước cổ tay, nếu đau tăng và có dấu hiệu không duỗi thẳng được ngón 3, có thể là trật xương bán nguyệt.

X quang

Nên chụp đúng tư thế cẳng tay để ngửa. Phim xác định có gãy xương, đường gãy, di lệch, loại gãy và tổn thương đi kèm. Khi nghi có gãy xương thuyền nên chụp thêm phim có tư thế đặc biệt cho xương này.

Gãy đầu dưới xương quay kiểu duỗi (Pouteau- Colles):

Vị trí gãy: cách bờ khớp trước khoảng 2cm.

Đường gãy thường gãy ngang, không thấu khớp.

Vị trí và đường gãy như loại Pouteau- Colles.

Di lệch: chồng ngắn; sang bên ra ngoài, ra trước; gấp góc mở ra trước.

Điều trị

Có nhiều phương pháp điều trị nhưng chọn phương pháp nào thì cần dựa vào loại gãy, khả năng di lệch thứ phát, tuổi và nghề nghiệp bệnh nhân. Có 2 phương pháp chính là nắn xương và bó nẹp

Nắn xương

Gây tê ổ gãy với 10ml novocain 1-2%, gây tê vùng, thuỷ châm tê hoặc gây mê.

Nắn chỉnh: kéo sửa di lệch chồng trước và nắn đoạn gãy xa theo đoạn gãy gần. Có thể nắn bằng tay (2 người nắn) hoặc bằng khung (1 người nắn).

Chú ý: chỉ kéo 1 ngón cái để lực tác động thẳng vào đầu dưới xương quay, cẳng tay nửa sấp nửa ngửa. Kiểm tra hết di lệch chồng bằng đo chiều dài xương hoặc xem sự chênh lệch giữa 2 mỏm trâm.

Bó nẹp

Phương pháp đặt nẹp và đệm trong gãy Poutau – Colles

Khi bảo tồn thất bại, phẫu thuật kết hợp xương có thể là: xuyên kimKirschner; xuyên kim qua khe gãy (phẫu thuật Kapandji): xuyên 2- 3 kim (có thể dùng kim Kirschner) qua khe gãy và đoạn gãy gần để chốt chặn đoạn gãy xa không cho đi lệch, đặt nẹp ốc nhỏ, đặt cố định ngoài (dùng trong gãy hở và gãy nhiều mảnh).

Biến chứng và di chứng

Biến chứng sớm

Chèn ống cổ tay: thể hiện bằng sự đè ép thần kinh giữa.

Chèn ép thần kinh trụ và động mạch quay: ít gặp.

Gãy hở: do xương gãy đâm ra.

Biến chứng muộn

Can lệnh: thường gặp; nếu di lệch nhiều xét thấy cần thiết sửa chữa thì chuyển điều trị phẫu thuật; nếu lệch ít: chấp nhận can lệch và tập vận động phục hồi chức năng.

Khớp giả:rất hiếm

Rối loạn dinh dưỡng: thường gặp nhất là hội chứng Soudeck, hội chứng vai bàn tay, gãy đau và mất chức năng vận động cổ tay bàn tay; rối loạn dinh dưỡng thường gặp do bệnh nhân thiếu tập luyện trong thời gian mang nẹp, nhất là điều trị theo phương pháp bó bột.

Sử dụng một trong các bài thuốc ngâm 15 đến 30 phút rồi tập luyện. Tránh xoa bóp thụ động càng làm rối loạn thêm dinh dưỡng tại chỗ, uống thuốc trong (bổ khí huyết,thông hoạt kinh lạc).

Bài trướcBệnh thoát vị đĩa đệm cột sống
Bài tiếp theoBệnh Gan nhiễm mỡ

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.