LỤC NGUYÊN CHÍNH KỶ ĐẠI LUẬN THIÊN
KINH VĂN
Hoàng Đế hỏi rằng:
– Sáu sự hóa, sáu sự biến, thắng với phục, râm với trị cùng những vị cam, khổ, tân, hàm, toan, đạm có nên trước sau như thế nào, tôi đã biết rồi(1).
Duy sự hóa cùa năm vận, hoặc thuận năm khí, hoặc trái thiên khí, hoặc thuận thiên khí mà trái địa khí, hoặc thuận địa khí mà trái thiên khí, hoặc tương đắc, hoặc không tưong đắc… Tôi chưa hiểu được rõ ràng. Giờ muốn suốt “kỷ” cùa trời, thuận “lý” cùa đất, cho vận được hòa, cho hóa được điều, khiến trên dưới họp đức, không cùng sai bực, trời đất thăng giáng, đều được thích nghi, năm vận tuyên hành, không trái vói chính, điều với chính vị thuận nghịch thế nào? Xin cho biết rõ(2).
Kỳ Bá thưa rằng:
– Trước phải cập lẩy “niên”, để cho rõ là thuộc khí nào ; cái số vận hành cùa Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ; cái hóa về sự lâm ngự cùa Hàn, Thử, Táo, Thấp, Phong, Hỏa. Như thế thời thiên đạo có thể tháy, dân khí cỏ thổ đều, âm dương quyển thư, gần mà không nhầm. Vậy xin lần lưọt nói rõ(3).
Hoàng Đế hỏi:
Chính của Thái dương như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
Đó thuộc về những năm Thìn, Tuất. Thái dương Tư thiên, Thái âm Tại toàn. Phàm lại chính cùa những năm Thái dưong Tư thiên tà hiếp do khí hóa vận hành Tư thiên (khí đến trước khi mùa chưa đến), Thiên khí nghiêm túc (hanh hái), địa khí yên lặng, hàn khí tràn ngập thái hư, Dương khí không thi hành được chính lệnh. Thủy với Thổ họp đức. Trên ứng lên Thần tinh và Chấn tinh, về loài cốc (thóc), sắc vàng. Lệnh cùa nó thư từ (thong thà), hàn chính phát triển nhiều, nơi trầm lây không dưong diễm (hơi nóng cùa khí dương), nên Hỏa phát phải đọi thời, khí cùa Thiếu dương chù tri về khoảng giữa, mưa nhuần không ngót, rồi lại qua về Thái âm. Mây về Bắc cực, thấp hóa lan, nhuần thấm muôn vật, hàn khắp ở trên, sấm động ở dưới, khí cùa hàn thấp, cùng giao với nhau. Do đó, dân sinh bệnh hàn thấp, cơ nhục nhão nát, túc nuy không cử động đưọc, đại tiện tiết tả và huyết giật (tràn)(4).
“Sơ chi khí”, khí đất thay đổi, khí sẽ đại ôn (ấm nhiều); loài cỏ sớm tốt; dân mắc dịch lệ, ôn bệnh phát sinh, mình nóng, đầu nhức, nôn ọe, ngoài da mụn lở^.
“Nhị chi kín’”, đại lương (mát nhiều) lại đến; loài cỏ gặp lạnh; Hỏa khí bị chèn; dân phát bệnh khí uất, trung mãn. Khí hàn mới bắt đầu (rét)(6).
“Tam chi khí”, chính của thiên khí tán bố, hàn khí tràn lan; thường mưa nhiều. Dân mắc bệnh hàn mà lại Nhiệt trung (nóng ở bên trong), các ung thư phát sinh ở bộ phận dưới, Tâm nhiệt và sầu muộn (bực, nhọc, mê mẩn), không kịp chữa sẽ chết(7).
“Tứ chi khí”, phong với thấp giao tranh, phong hóa làm rõ, bấy giò’ mới trưởng, mới hóa, mới thành. Dân mắc bệnh đại nhiệt, ít khí, cơ nhục nhão nát, túc nuy, tiết tả hoặc trắng hoặc đỏ(8).
“Ngũ chi khí”, khí dương lại hóa; loài thào mới trưởng, mới hỏa, mới thành; dân bệnh mới được thư (dễ chịu)(9).
“Chung chi khí” địa khí chính ngôi, thấp lệnh lưu hành; khí âm thái hư khói bụi tràn đồng ruộng; dân mới bị rét lạnh (buồn bã), gió rét đã đến. Nếu trái thế, các loài có thai dựng sẽ không thành(l0).
Cho nên thuộc về năm Thái dương Tư thiên, nên dùng vị khổ để làm cho “táo”, làm cho ôn(12).
Phải “chiết” bỏ cái khí làm nên uất và giúp thêm cho cái hóa nguyên cùa nó(12). Đè nén cái vận khí, giúp đỡ cái “bất thắng”, đừng để cho nó quá bạo mà sinh ra bệnh tật(13).
Ăn tuế cốc để bảo toàn lấy chân nguyên, tránh hư tà để cho yên chính khí(14).
Chưó’c lượng cái khí nó đồng hay dị, hoặc dùng nhiều, hoặc dùng ít để chế lại. Nếu “cùng” hàn thấp thì dùng táo, nhiệt để hóa; nếu “khắc” hàn thấp thì dùng táo thấp để hóa. Vậy “cùng” thì dùng nhiều, “khác” thì dùng ít(15).
Muốn dùng hàn, phải cách xa cái thời kỳ hàn; muốn dùng nhiệt, phải cách xa cái thời kỳ nhiệt, muốn dùng ôn phải cách xa cái thời kỳ ôn; muốn dùng lương phải cách xa cái thời kỳ lương, về sự ăn cũng cùng một phương pháp. Nếu già thì làm trái lại, không đúng thế thì mắc bệnh, đó tức là phải giữ đúng “thời” (mùa) vậy(16).
Hoàng Đế hỏi:
– Chính cùa những năm thuộc Dương minh như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Thuộc về những năm Mão, Dậu. Dương minh táo Kim tư thiên; Thiếu giác hỏa vận; Thiếu âm quân hỏa Tại toàn.
Phàm cái chính cùa những năm Dương minh Tư thiên, khí hóa, vận hành đều Hậu thiên(17). Thiên khí kính cấp, địa khí quang minh(18). Dương khí chuyên phát huy chính lệnh của mình, nên khí viêm thử tràn lan, mọi vật táo và kiên(19). Thuần phong mới trị phong táo ngang vận, tràn khí giao, nhiều dưong, ít âm, mây theo mưa xuống, thấp hóa mới sinh, táo cực rồi nhuận(20). về loài cốc, sắc nó trắng và đỏ(21).
Kim với hỏa họp đức, trên ứng với Thái bạch, Huỳnh hoặc chính cùa nó thao thiết; lệnh của nó cường; loài chập trùng mới hiện, nước chảy không thành băng. Dân sinh bệnh khái, ách tấc (nghẽn ở cuống họng); chứng hàn nhiệt bạo phát, run rẩy và long bế (tiểu tiện vít hoặc buốt)(22).
“Thanh” trước rồi mới “kính”, loại mao trùng sẽ chết; “nhiệt rồi mới bạo”, loài giới trùng sẽ hại(23).
Khi nó phát ra táo (vội vàng, gấp bách); sự thắng phục phát sinh, rất là rối loạn; cái khí thanh, nhiệt, đứng vững ở thời kỳ khí giao(24).
“Sơ chi khí”, khí đất mới đổi,(25) âm mới ngừng, khí mới túc (nghiêm, lạnh), nước mới thành băng, hàn võ mới hóa. Sẽ phát ra bệnh nhiệt trướng, mà mặt phù thũng, hay ngủ, cầu (đau ở sống mũi), nục (huyết ra đằng mũi), xị (hắt hoi), khiếm (vươn vai), ẩu (oẹ), tiểu tiện vàng và đỏ, quá lắm thì lâm (do tiểu nhỏ giọt).
“Nhị, chi khí”, khí dương mói tán bố, dân mới dễ chịu, mọi vật mới sinh ra và tốt, lệ khí mới đến, dân hay bạo tử(26).
“Tam chi khí”, thiên chính mới tán bố, lương khí (khí mát) mói lưu hành, táo với nhiệt giao họp. Táo cực mà nhuận, dần sẽ mắc bệnh hàn, nhiệt(26).
“Tứ chi khí”, mưa lạnh xuống; bệnh bỗng dưng ngất đi, run rẩy, nói mê, ít khí, cuống họng khô, khát đòi uống, mà Tâm thống, ung thũng (mụn sưng), thương dương (lở láy), hàn ngược (sốt rét), cốt nuy và tiện huyết(27).
“Ngũ chi khí”, xuân lệnh lại lưu hành, loài thảo lại tốt tươi, dân khí hòa(28).
“Chung chi khí”, Dương khí tán bố, khí hậu lại ôn, chập trùng hiện ra, nước không thành băng, dân mới an khang. Neu biến tai sành, sẽ là bệnh ôn(29). Cho nên, nên ăn tuế cốc cho yên chính khí, nên ăn “gián cốc” để trừ tà khí(30); nên dùng các vị hàm, vị khổ, vị tân; dùng các phép thanh, phép hãn, phép tán(31). Làm cho yên vận khí, đừng để thụ tà(32); nên chiết bỏ uất khí mà giúp cho hóa ngúyên(33); dùng các khí hàn, nhiệt, khinh, trọng, mà chế hoặc ít, hoặc nhiều. Nếu đồng nhiệt thì nhiều thiên hóa, đồng thanh thì nhiều địa hóa(34).
Dùng lương, nên xa thời kỳ lương; dùng nhiệt nên xa thời kỳ nhiệt; dùng hàn nên xa thời kỳ hàn; dùng ôn nên xa thời kỳ ôn. Việc ăn, nên cùng một phương pháp, cỏ “già” thời trái lại, đó là đạo chính. Nếu trái phương pháp đó, sẽ làm loạn kinh cùa trời đất, và rối cái “kỷ” của âm dương(35).
Hoàng Đế hỏi:
– Chính lệnh của Thiếu dương như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Thuộc về những năm Dần, Thân. Thiếu dương tướng hỏa Tư thiên, Thái giác hóa vận, Quyết âm phong mộc Tại toàn.
Phàm cái chính cùa những năm Thiếu dương Tư thiên khí hóa, vận hành tiên thiên. Thiên khí chính(36), địa khí nhiều (rối loạn)(37).
Phong sẽ nồi to, cày đổ, cát bay; khí viêm hỏa mới lưu hành, mưa sẽ thường xuống(38). Hỏa với Mộc cùng đức, trên ứng với Huỳnh hoặc, Tuế tinh, về loài cốc sẽ hiện sắc đan (đỏ), thương (xanh); chính cùa nó nghiêm, lệnh cùa nó nhiễu(39).
Cho nên phong với nhiệt cùng tán bổ, mây khói tung bay. Thái âm tràn lan, thường gặp khí lạnh, mưa gió dồn dập(40).
Dân mắc bệnh hàn trung, ngoài mọc Iỏ’ mụn, trong sinh tiết mãn. Cho nên thánh nhân gặp nhũng năm đó, hòa mà không tranh. Sự vãng phục phát sinh, dân mắc bệnh hàn nhiệt, ngưọc tiết, tùng (điếc), minh (mắt mờ), ẩu Thổ, trên mặt đau và sưng, sắc biến(41).
“Sơ chi khí”, địa khí thay đổi, phong thắng nên mọi vật động giao; khí hàn rút đi, khí âm sẽ đến; cỏ cây sớm tốt; hàn tới không giảm bót; bệnh ôn sẽ phát sinh; bệnh khí dồn lên trên, huyết tràn, mắt đỏ; khai nghịch, đầu nhức, huyết băng, hiếp mãn, phu tấu, mụn (42).
“Nhị chi khí”, Hỏa lại uất, bụi trắng tung bay, mây theo mưa xuống, phong không thắng được thấp… Dân được an khang. Nếu gặp tai sành, sẽ phát bệnh nhiệt uất lên trên, khái nghịch, ẩu thổ, ở trong, hung, hiếp không lợi, đầu rức, mình nóng, mê man, mụn mủ(43).
“Tam chi khí”, khí cùa Tư thiên tán bố, khí viêm thử đến khí* cùa Thiếu dương lâm ở trên, mưa sẽ tràn. Dân mắc bệnh Nhiệt trung, tùng, minh (mắt mờ), huyết ràn, mụn mủ; khái, ẩu, nục, khát, xị, khiếm, hầu tý, mắt đỏ, hay bạo tử(44).
“Tứ chi khí”, khí mát đến; khí viêm thử “gián hóa”; bạch lộ xuống, dân khí hòa binh; nếu phát bệnh sẽ phúc mãn, mình nặng(45).
“Chung chi khí”, địa khí chính, phong mới đến, muôn vật lại sinh trưởng, sương mù lưu hành; dân mắc bệnh “quan bế”, bất cấm (đi tiểu luôn), Tâm thống; Dương khí không về Tàng nên phát khái(46).
Nếu bót vận khí, giúp cho cái “sở bất thắng”; phải chết bỏ uất, trước lấy hóa nguyễn. Nhờ đó bạo vận không sinh ra, bệnh dộc không phát sinh(47).
Vậy năm đó, nên dùng các vị hàm, vị tân, vị toan; nên dùng phép thâm, tiếp tích, pháp phát(48).
Nhân xem khí hàn hay ôn, để diều trị tật bệnh; nếu “đồng” phong nhiệt thì dùng nhiều hàn hóa, “dị” phong nhiệt thì dùng ít hàn hóa(49).
Dùng nhiệt, nên xa thời kỳ nhiệt; dùng ôn, nên xa thời kỳ ôn; dùng hàn, nên xa thời kỳ hàn; dùng lương nên xa thời kỳ lương; về việc ăn, cũng cùng một phương pháp, đó là đạo chính. Có giả, thì trái lại. Nếu làm trái phương pháp đó, sẽ là nguyên nhân gây nên bệnh(50).
Hoàng Đế hỏi:
– Chính, lệnh của Thái âm như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
Thuộc về những năm Sửu, Vị (Mùi) Thái âm thấp Thổ Tư thiên; Thiếu giác hóa vận, Thái dương hàn thủy Tại toàn.
Phàm cái chính cùa những năm Thái âm Tư thiên, khí hóa vận hành đều Hậu thiên (sau thiên thời mới đến, tức là bất cập); Âm khí chuyên chính, Dương khí rút lui; gió lớn thường nổi; khí trời giáng xuống, khí đất bốc lên; dồng ruộng khói tỏa, bụi trắng tung bay; mây về phương Nam, thường tuôn mưa lạnh, mọi vật trưởng thành về mùa Trường hạ; do đó, dân mắc bệnh hàn thấp, phúc hãn, mình phù, thân thũng, bĩ nghịch, hàn quyết, câu cấp (tay chân co rút); thấp với hàn họp đức, nên “vàng đen” tối tăm, lưu hành ở trong khí giao, trên ứng vói Chấn tinh, Thần minh, chính nó là nghiêm ngặt, bệnh nó yên lặng, về loài cốc, sắc kiềm huyền (vàng, đen)(51).
Cho nên: âm “ngừng” ỏ’ trên, hàn tích ở duới; thủy hàn thắng hỏa, thì biển thành băng bộc (nước cứng, mưa đá), dương quang không thể phát triển, cái khí túc sái sẽ lưu hành(52).
Cho nên: hữu dư nôn ờ nơi cao, bất cập nên ở nơi thấp; hữu dư nên sớm, bất cập nén muộn; đó là do dịa lợi và khí hòa. Dân khí cũng theo đỏ(53).
“Sở chi khí”, địa khí thay đổi; hàn mới đi, xuân khí chính; phong mới đến, sinh khí tán bố, muôn vật tươi tốt, dân khí thỏa thuê, phong với thấp cùng sát với nhau, mưa tới muộn; dân mắc bệnh huyết giật, cân lạc, câu cường (co rụt, cứng đờ), quan tiết (các khớp xương) không lợi, mình nặng, cân nuy (rã rời)(54).
“Nhị chi khí” đại Hỏa mới thịnh, mọi vật nhờ sự sinh hóa; dân mói hòa. Chứng ôn lệ lưu hành nhiều, xa, gần đều mắc; khí thấp bốc lên, thường có mưa to(55).
“Tam chi khí”, thiện chính tán bố; khí thấp giáng xuống, khí đất bổc lên. Thường có mưa, khí lạnh nối theo. Cảm về khí hàn thấp đó, nên dân mẳc bệnh mình nặng, hung phúc mãn, hoặc trướng(56).
“Tứ chi khp’, ủy Hỏa mới tới, hơi nóng nung nấu, khí đất bốc lên, khí trời bĩ cách, sớm chiều gió lạnh, cỏ cây khói tỏa, thấp hóa không tan; do đó móc trắng đêm xa để thành thu lệnh. Dân mắc bệnh tấu lý nhiệt huyết bạo giật, ngược, Tâm phúc mãn, nhiệt trướng, quá lắm thì phù thũng(57).
“Ngũ chi khí”, cái bệnh âm thảm đã lưu hành, móc rơi, sương xuống, cỏ cây úa rụng; khí hàn buốt da, nên phải phòng bị cẩn mật, dân sẽ mắc những bệnh ở ngoài cơ tấu(58).
“Chung chi khí”, khí hàn đại cử, khí thấp đại hóa, sương mới tích, âm mới ngưng, nước rắn thành băng, khí dương quang không thể phát triển. Vì cảm phải khí hàn, nên mắc bệnh quan tiết, yêu chùy thống(59).
Phải chiết bỏ uất khí, mà lấy ở hóa nguyên, giúp cho tuế khí, đừng để tà thắng(60).
Trong năm, nên dùng vị khổ để làm cho táo, làm cho ôn; quá lắm thì dùng phép cho nó “phát” ra, cho nó “tiết” ra. Nếu không phát, không tiết, thì thấp khí sẽ ràn ra ngoài, thịt thối, da nứt, khiến thuỷ huyết đều chày, phải giúp cho dương hỏa, để ngăn khí hàn; theo khí dị đồng, để định khí nhiều hay ít; nếu đồng hàn thì dùng nhiệt hóa, đồng thấp thì dùng táo hóa; dị thời dùng ít, đồng thời dùng nhiều(61).
Dùng lương nên xa thời kỳ lưong, dùng hàn nên xa thời kỳ hàn, dùng ôn nên xa thời kỳ ôn, dùng nhiệt nên xa thời kỳ nhiệt, về ăn cũng cùng một phưcrng pháp. Có giả thời dùng trái lại, đó là chính đạo. Nếu trái phương pháp đó sỗ gây nên bệnh.
Hoàng Đế hỏi:
– Chính lệnh cùa Thiếu âm như thế nào?
Kv Bá thưa rằng:
– Thuộc về những năm Tý và Ngọ, Thiếu âm quân hỏa Tư thiên, Thái giác hỏa vận, Dương minh táo Kim Tại toàn. Phàm chính lệnh của những năm Thiếu âm Tư thiên, khí hóa vận hành đều Tiên thiên, địa khí nghiêm túc, thiên khí quang minh, thử, nhiệt lại thêm táo, mây theo mưa xuống; khí thấp hóa sẽ lưu hành, mưa nhuần thường xuống. Kim với Hòa hợp đức, trên ứng với Huỳnh hoặc, Thái bạch. Chính của nó sáng sủa, lệnh cùa nó nghiêm thiết, về loài cốc, sắc đan bạch (đỏ và trắng). Thủy, Hỏa, hàn, nhiệt, cùng lẫn lộn ở trong khí giao(62).
Nhiệt bệnh phát sinh ở bộ phận trên, thanh bệnh phát sinh ở bộ phận dưới; hàn nhiệt rối loạn, giao tranh ở bên trong. Dân phát bệnh suyễn, huyết giật huyết tiết, cầu, xị, mục xích (mặt đỏ), Tý dưong (toét ở đuôi mắt); hàn quyết vào Vị, Tâm thống, yêu thống, phúc đại (bụng to, cũng như trưóng), ách Can (cuống họng khô), thũng thượng (sưng ở các bộ phận trên)(63).
“Sơ chi khí”, địa khí thay đổi; khí táo sắp hết, khí hàn bắt đầu; các loài chập trùng lại ẩn nấp; nước mới thành băng; sương lại xuống, gió mới thổi; Dương khí bị uất. Dân phải kín đáo, giữ gìn các quan tiết; yêu chùy (xương sống chỗ ngang thắt lưng) đau; khí viên thử sấp tràn lan, trong ngoài mọc mụn lở*64*.
“Nhị chi khí”, Dương khí tán bố, phong mới lưu hành, xuân khí mới chính, muôn vật đều tốt; hàn khí thỉnh thoảng đến, dân mới hòa; dân phát bệnh lâm; mắt mờ, mắt đỏ; khí uất lên trên mà nhiệt(65).
“Tam chi khí”, thiên chính tán bố, đại Hỏa lưu hành, mọi loài nảy nở; hàn khí thỉnh thoảng đến. Dân mắc bệnh khí quyết, Tâm thống; hàn nhiệt thay đổi; khái suyễn, mắt đỏ(66).
“Tứ chi khí”, khí phục thử đến, thường có mưa lớn; hàn nhiệt đều đến. Dân mắc bệnh hàn nhiệt, ách Can, hoàng đàn, câu, nục và (67)
“Ngũ chi khí”, sợ Hỏa lâm, thử lại đến; dương mói hóa, muôn vật mới sinh, mới lớn và tốt; dân an khang, nếu cỏ tai sành, sẽ là bệnh ôn(68).
“Chung chi khí”, táo lệnh lưu hành, dư Hỏa cách trở ở bên trong, thũng ở bộ phận trên; khái, suyễn, quá lắm thì huyết giật. Hàn khí phát sinh luôn, do đó sương mù tòa. Bệnh phát sinh ở trong bì phu, tấu lý, hợp VỚI dưới hiếp, liền xuống Thiểu phúc mà sinh hàn trung, do địa khí sẳp đổi vậy(69).
Phải nén bớt vận khí, giúp các tuế trắng, chiết bỏ cái uất phát, trước lấy ở hóa nguyên. Đừng để cho bạo quá mà sinh bệnh(70).
Ăn tuế cốc để bảo toàn chân khí, ăn gián cốc để trừ bỏ hư tà.
Trong năm, nên dùng vị hàm để làm cho nhuyễn và điều trị ở bộ phận trên; quá lắm thỉ dùng vị khổ làm cho phát ra, dùng vị toan để cho thâu lại, mà làm cho yên bộ phận dưới. Quá lắm thì dùng vị khổ để làm cho tiết(71).
Nên chước lượng sự đồng, dị, mà dùng nhiều, ít. Nếu đồng thiên khí thì dùng hàn thanh đế hóa, đồng địa khí thì dùng ôn nhiệt để hóa(72).
Dùng nhiệt, nên xa thời kỳ nhiệt; dùng lương, nên xa thời kỳ lương; dùng ôn nên xa thời kỳ ôn; dùng hàn nên xa thời kỳ hàn về việc ăn, cũng cùng một phương pháp. Có già, thì trái lại; đó là đạo chính. Nếu trái phương pháp đó sẽ gây nên tật bệnh.
Hoàng Đế hỏi:
– Chính lệnh cùa Quyết âm như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Thuộc về những năm Tị, Hợi, Quyết âm phong mộc Tư thiên, Thiếu giác hóa vận; Thiếu dương tướng hỏa Tại toàn. Phàm chính lệnh cùa những năm Quyết âm Tư thiên, khí hóa, vận hành đều Hậu thiên. Các năm đều đồng với chính tuể, khí hóa, vận hành đều đồng với Tư thiên(73).
Thiên khí nhiễu, địa khí chính; phong sinh ở nơi cao xa, khí viêm nhiệt nổi theo; mây theo mưa xuống, khí thấp hóa sẽ lưu hành; phong vói Hỏa cùng đức, trên ứng với Tuế tinh, Hình hoặc. Chính nó nhiễu, lệnh nó chóng, về loài cốc sắc thương (xanh xám) và đen, phong, táo, hỏa, nhiệt, thắng phục đổi thay; chập trùng bò ra, nước không thành băng. Nhiệt bệnh phát sinh ở dưới, phong bệnh phát sinh ở trên, phong táo thắng phục lưu hành ở khoảng giữa(74).
“Sơ chi khí”, khí hàn mới túc (gay gắt, buốt), sái khí vừa mới đến, dân bệnh ờ phía dưới, bên hữu Tại toàn cùa Thiếu dương(75).
“Nhị chi khí”, hàn không dứt, nước tuyết thành băng, sái khí mói phát triển, sương mới xuống, cỏ bị khô đét ở trên, đòi phen hàn võ, dưong lại hỏa ở dưói, dân mắc bệnh nhiệt ở trong(76).
“Tam chi khí”, thiên chính bổ tán, thường có gió to, dân mắc bệnh thường chảy nước mắt, ù tai, chóng mặt(77).
“Tứ chi khi’”, các khí phục thử, thấp nhiệt cùng giao tranh ở phía trên bên tả Quyết âm Tư thiên; dân mắc bệnh hoàng đản và phù thũng(78).
“Ngũ chi khí”, khí táo thấp thay nhau thắng, Khí trầm âm tán bố, dao hàn cắt da, đòi phen mưa, gió(79).
“Chung chi khí”, uý Hỏa tư lệnh, khí dương biến hóa, chập trùng bò ra, hước không thành băng, địa khí phát tiết mạnh, loài cỏ nảy mọc, con ngưòi dễ chịu. Nếu gặp khí biến, sẽ mắc bệnh ôn lệ(80).
Phải chiết bỏ bót khí uất, giúp thêm hóa nguyên, đỡ cho vận khí, đừng để tà thắng(81).
Trong năm, nên dùng vị tân để điều trị bộ phận trên, dùng vị hàm để điều trị bộ phận dưới, cái kill úy hỏa đừng phạm càn vào nỏ(82).
Dùng ôn, nên xa thời kỳ ôn, dùng nhiệt nên xa thời kỳ nhiệt, dùng lương nên xa thời kỳ lương, dùng hàn nên xa thời kỳ hàn. về việc ăn, cũng cùng một phưong pháp. Có giả, thì trái lại, đó là đạo chính. Nếu trái phương pháp đó, sẽ gây tật bệnh.
Hoàng Đế hỏi:
– Phu Tử nói đã rất rõ, nhưng lấy gì để tỏ về sự tưong ứng?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Phàm sáu khí, lúc đl có thứ tự, lúc ngừng có vị trí. Cho nên thường lấy tháng giêng, ngày sóc (mồng một), sáng rõ, nhận xem; biết được vị trí, thì sẽ biết được ở đâu rồit83).
Vận hữu dư, nó đến trước; vận bất cập, nó đến sau. Đó là cái đạo của trời và là lẽ thường cùa khí. Nếu vận không hữu dư, không bất túc, tức là chính tuế, vì nó đến đúng với mùa(84).
Hoàng Đế hỏi:
– Cái khí thắng phục, đã có nhất định rồi. Còn cái sự tai sảnh xảy đến, lấy gì dể dự biết được?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Nếu không phải khí hóa, thì tức là tai sảnh(85).
Hoàng Đế hỏi:
– Cái số cùa trời đất, chung thủy như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
Bắt đầu cùa số, khỏi ở trên mà chung (cuối cùng) ở dưới. Nửa năm về trước, thiên khí làm chù; nửa năm về sau, khí đất làm chủ. Trong lúc trên dưới – giao hỗ, thì khí giao làm chù. Như thế là hết về tuế kỷ. Cho nên nói rõ được vị trí thì “khí, nguyệt” có thể biết đưọc(86).
Hoàng Đế hỏi:
– Tôi coi việc đó, đến lúc thi hành, lại thấy có chỗ không hợp là vì sao?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Khí dụng có nhiều ít, hỏa hiệp cỏ thịnh suy. Thịnh, suy, nhiều, ít cũng đều chung một sự biến hóa của trời đất. Tỷ như: Phong ôn, đồng hóa với mùa xuân; nhiệt huân, hôn hỏa, đồng hóa với mùa hạ; thắng vói phục, đồng, táo, thanh, yên (khói) lộ (móc), đồng hóa với mùa thu; mày, mưa, tối, tăm, đồng hóa với mùa Trường hạ; khí lạnh, sương, tuyết băng… đồng hóa với mùa đông. Đó là sự hóa do năm vận, sáu khí trời đất và sự thường về thịnh suy thay đổi(87)
Hoàng Đế hỏi:
– Năm vận, vận hành mà đồng thiên hóa, gọi là Thiên phù, tôi đã biết rồi. Còn đồng địa hòa, như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Thái quá mà đồng thiên hóa, có ba vận; bất cập mà đồng thiên hóa cũng có ba vận. Thái quá mà đồng địa hóa có ba vận; bất cập mà đồng địa hóa cũng có ba vận. Vậy tất cả cộng có hai mươi bốn năm. Tỳ như: Những năm Giáp Thìn, Giáp Tuất, dưới Thái cung gia Thái âm; nhũng năm Nhâm Dần, Nhâm Thân, dưới Thái giác gia Quyết âm; những năm Canh Tý, Canh Ngọ, dưới Thái thương gia Dương minh. Như thế là ba vận (đó là thái quá ba vận, họp với sáu khí, cộng sáu năm). Những năm Quý Tỵ, Quý Hợi dưới Thiếu chùy gia Thiếu dương; những năm Tân Sửu, Tân Vị (Mùi) dưới Thiếu vũ gia Thái dương; những năm Quý Mão, Quý Dậu dưới Thiểu chùy gia Thiếu âm. Như thế là ba vận (đó là bất cập mà đồng địa hóa ba vận, hợp với sáu khí cộng sáu năm). Những năm Mậu Tý, Mậu Ngọ trên Thái chùy lâm Thiếu âm, những năm Mậu Dần, Mậu Thân trên Thái chùy lâm Thiểu dương; những năm Bính Thìn, Bính Tuất trên Thái vũ lâm Thái dương. Như thế là ba vận (đó là thái quá mà đồng thiên hóa ba vận, họp với sáu khí, cộng sáu năm). Những năm Đinh Tỵ, Đinh Hợi trên Thiếu giác lâm Quyết âm; những năm Ẩt Mão, Ất Dậu trên Thiếu dương lâm Dương minh; những năm Kỷ Sửu, Kỷ Vị (Mùl) trên Thiếu cung lâm Thái âm. Như thế là ba vận (đó là bất cập mà đồng thiên hóa ba vận, họp với sáu khí, cộng sáu năm). Ngoài hai mươi bốn năm ấy, thì không có gia và lâm nữa (chi 24 năm ấy là có thượng, hạ, gla, lâm, còn 36 năm khác thì không có).
Hoàng Để hỏi:
– “Gia” như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Thái quá mà gia đồng với Thiên phù, bất cập mà gia đồng với Tuế hội(88).
Hoàng Đế hỏi:
– “Lâm”: như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Thái quả, bất cập, đều có Thiên phù, mà biến hành có nhiều ít; bệnh hình có nhẹ nặng; sống chết cỏ sớm, muộn khác nhau(89).
Hoàng Đế hỏi:
– Phu Tử nói: Dùng hàn xa hàn, dùng nhiệt xa nhiệt, tôi chưa hiểu rõ. Xin cho biết thế nào là “xa”?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Dùng nhiệt đừng phạm nhiệt, dùng hàn đừng phạm hàn. Thuận thì hòa, trái thì bệnh. Vậy phải kính sợ mà lánh xa. Đó tức “thời” khởi theo sáu Vị vậy(90).
Hoàng Đế hỏi:
– Ồn, lương như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Tư khí là nhiệt, dùng nhiệt đừng phạm; tư khí là hàn, dùng hàn đừng phạm; tư khí là lương, dùng lương đừng phạm; tư khí là ôn, dùng ôn đừng phạm; gián khí đồng với chủ khí, đừng phạm; dị với chù khí thời có thể tiểu phạm (hơi phạm). Đó là “tứ úy” (bốn đều sợ), phải xét cho kỹ(91).
Hoàng Đế hỏi:
– Phạm thì như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Thiên khí trái thòi (mùa) thì có thể theo thời; nếu thắng được chủ, thì có thể phạm. Lấy quân bình làm giới hạn, mà không thể quá.
Đó là bảo tà khí “phàn thắng”(92).
Cho nên nói: Đừng mất thiên tín, đừng trái khí nghi; đừng đỡ cái thắng, đừng giúp cái nhục. Thế là chính trị(93).
Hoàng Đế hỏi:
– Năm vận khí lưu hành, cái kỷ cùa chù tuế, có thường số không?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Tôi xin theo thử tự, nói dưới đây:(94)
Nhũng năm Giáp Tý, Giáp Ngọ. Ở trên, Thiếu âm quân hỏa Tư thiên; ỏ- giữa, thái cung Thổ vận; ở dưới Dương minh táo Kim Tại toàn. Nhiệt hóa hai(95), võ hóa năm(96), táo hóa bổn(97), đó là những ngày chính hóa(98). về hóa, ờ trên thời hàm, hàn(99); ờ giữa thời khổ nhiệt(100); ở dưới thời toan nhiệt(101). Đó là những thích nghi về dược và thực(102).
Những năm Ất Sửu, Ất Vị “mùi”, ở trên, Thái âm thấp Thổ Tư thiên; ở giữa, Thiếu dương Kim vận; ờ dưới, Thái dương hàn thủy Tại toàn. Nhiệt hóa, hàn hóa, thắng phục đồng (nhiệt thắng, hàn phục). Đó là tà khí hỏa nhật(103). Thấp hóa năm(104), thanh hóa bốn(105), hàn hóa sáu(106), đỏ tức là chính hóa(107). về hóa, ở trên thì khổ, nhiệt(108); ở giữa thì toàn, hòa(109); ờ dưới thì cam nhiệt(110). Đó là thích nghi của dược phẩm và thực vị(111).
Những năm Bính Dần, Bính Thân. Ở trên, Thiếu dương tướng hỏa Tư thiên; ở giữa, Thái vũ thủy vận; ở dưới, Quyết âm phong mộc Tạl toàn.
Hỏa hóa hai(112), hàn hóa sáu(113), phong hóa ba(114), đó tức là chính hóa nhật(115). về hóa, ở trên thì hàm, hàn(116); ờ giữa thì hàm, ôn(117); ở dưới thì tân, ôn(118). Đó là thích nghi của thực vị và dược phẩm(119).
Nhũng năm Đinh Mão, Đinh Dậu. ở trên, Dương minh táo Kim Tư thiên; ở giữa, Thiếu giác một vận; ở dưới, Thiếu âm quân hỏa Tại toàn.
Thanh hóa, nhiệt hóa, thắng với phục động. Đó là tà hóa nhật(120). Táo hóa sáu(121), phong hóa ba(122), nhiệt hóa bảy(123), đó tức là chính hóa nhật(124). về hóa, ở trên thì khổ và hơi ôn(125); ở giữa thi tân và hòa(126); ở dưới thì hàm và hàn(126). Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm. Những năm Mậu Thin, Mậu Tuất, ở trên, Thái dương hàn thủy Tư thiên; ỏ’ giữa, Thái chùy hỏa vận; ở dưới, Thái âm thấp Thổ Tại toàn.
Hàn hóa sáut(127), nhiệt hóa bày(128), thấp hóa năm(129), đó tức là chính hóa nhật(130). về hóa, ỏ’ trên thì Thổ và ôn; ở giữa thì cam và hòa; ỏ’ dưới thì cam và ôn. Đó là thích nghi cùa thực vị và dược phẩm.
Nhũng năm Kỷ Tỵ, Kỷ Hợi. Ở trên, Quyết âm phong mộc Tư thiên; ở giữa, Thiếu cung Thổ vận; ở dưới, Thiếu dưcmg tưóng hỏa Tại toàn.
Phong hóa, thanh hóa, thắng và phục đồng, đó tức là khí hóa nhật(131). Phong hóa ba,(132), thấp hóa năm(133), hỏa hóa bảy(134). Đó tức là chính hóa nhật, về hóa, ở trên thì tân và lương; ở giữa thì cam và hòa; ỏ’ dưới thì hàm và hàn. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Những năm Canh Ngọ. Canh Tý. ở trên, Thiếu âm quân hỏa Tư thiên; ỏ’ giữa Thái thương Kim vận; ở dưới, Dương minh táo Kim Tại toàn. Nhiệt hóa bày(135), thanh hóa chín(136), táo hóa chín(137), đó là chính hóa nhật, về hóa, ở trên thì hàm và hàn; ờ giữa thì tân và ôn; ở dưới thì toan và ôn. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Những năm Tân Vị, Tân Sửu. Ở trên, Thái âm thấp Thổ Tư thiên; ỏ’ giữa Thiếu vũ thủy vận; ở dưới Thái dương hàn thủy Tại toàn. Võ hóa, phong hỏa, thắng và phục, đồng, đỏ tức tà khí hóa nhật(138). Võ hóa năm(139), hàn hóa một(140), đó tức là chính hóa nhật, về hóa, ở trên thì khổ và nhiệt; ở giữa thì khổ và hòa; ở dưới thì khổ và nhiệt. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Những năm Nhâm Thân, Nhâm Dần. Ở trên, Thiếu dương tướng hỏa Tư thiên; ở giữa, Thái giác Mộc vận; ở dưới, Quyết âm phong mộc Tại toàn. Hỏa hóa hai(141), phong hóa tám(142), đó tức là chính hóa nhật, về hóa, ở trên là hàm và hàn; ở giữa là toan và hòa; ở dưới là tân và lưong. Đó là thích nghi củathực vị và dược phẩm. Những năm Quỷ Dậu, Quý Mão. ở trên, Dưong minh táo Kim Tư thiên; ở giữa, Thiếu chùy hỏa vận; ở dưới, Thiếu âm quân hỏa Tại toàn. Hàn hóa, võ hóa, thắng và phục, đồng, đó tức là tà khí hóa nhật. Táo hóa chín(143), nhiệt hóa hai(144), đó tức là chính hóa nhật, về hóa, ở trên thì tiểu ôn; ở giữa thi hàm và ôn; ở dưới thì hàm và hàn. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Những năm Giáp Tuất, Giáp Thin. Ở trên, Thái dương hàn thủy Tư thiên; ở giữa, Thái cung chù vận; ở dưới, Thái âm thấp Thổ Tại toàn. Hàn hóa sáu(143), thấp hóa năm(144), đó tức là chính hóa nhật, về hóa, ở trên thì khổ và nhiệt; ở giữa thời khổ và ôn; ở dưới cũng khổ và ôn. Đó là thích nghi và thực vị dược phẩm.
Những năm Ẩt Hợi, Ắt Tỵ. Ở trên, Quyết âm phong mộc Tư thiên; ở giữa Thiếu dương Kim vận; ở dưới, Thiếu dương tướng hỏa Tại toàn.
Nhiệt hóa, hàn hóa, thắng và phục, đồng, đó là tà khí hóa nhật. Phong hóa tám(145), thanh hóa bốn(146), hỏa hỏa hai(147), đó là cái thời độ về chính hoá. về hoá, ở trên thời tân và lirong; ở giữa thời toan và hòa; ở dưói thời hàm và hàn. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Những năm Bính Tý, Bính Ngọ. Ở trên, Thiếu âm quân hỏa Tư thiên; ở giữa, Thái vũ thủy vận; ở dưới, Dương minh táo Kim Tại toàn.
Nhiệt hóa hai(148), hàn hóa sáu(149), thanh hóa bổn(150), đó là chính hóa độ. về hóa, ở trên thì hàm và hàn; ở giữa thì hàm và nhiệt; ở dưỏ’i thì toan và ôn. Đỏ là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Những năm Đinh Sửu, Đinh Vị (Mùi), ở trên, Thái âm thấp Thổ Tư thiên; ở giữa, Thái giác Mộc vận; ờ dưới Thái dưong hàn thủy Tại toàn. Thanh hóa, nhiệt hóa, thắng và phục, đồng(151), đó tức là hóa độ cùa tà khí. Võ hóa năm(152), phong hóa ba(153), hàn hóa một(154), đó là chính hóa độ.
về hóa, ở trên thì khổ và ôn; ở giữa thì tân và ôn; ở dưới thì cam và nhiệt. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Những năm Mậu Dần, Mậu Thân. Ở trên, Thiếu dương tưóng hỏa Tư thiên; ở giữa, Thái chùy hỏa vận; ở dưới, Quyết âm phong mộc Tại toàn.
Hỏa hóa bày(155), phong hóa ba(156), đó là chính hóa độ. về hóa, ở trên thì hàm và hàn; ở giữa thì cam và hòa; ở dưới thì tân và lương.
Những năm Kỳ Mão, Kỷ Dậu. Ở trên, Dương minh táo Kim Tư thiên; ở giữa, Thiếu cung Thổ vận; ở dưới Thiểu âm quân hỏa Tại toàn.
Phong hóa, thanh hóa, thắng và phục, đồng(157), đó là hóa độ cùa tà khí. Thanh hóa chín (157), võ hóa năm(158), nhiệt hóa bày(159), đó là chính hóa độ. về hóa, ở trên thì khổ và tiểu ôn; ờ giữa thì cam và hòa; ở dưới thì hàm và hàn. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm
Những năm Canh Thìn, Canh Tuất. Ở trên, Thái dương hàn thủy Tư thiên; ở giũa Thái dương Kim vận; ở dưới, Thái âm thấp Thổ Tại toàn!
Hàn hóạ một(l60), thanh hóa chín(l6l), võ hóa năm(l62), đó là chính hóa độ. về hóa, ở trên thì khổ và nhiệt; ở giữa thì tân và ôn; ở dưới thì cam và nhiệt. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Những năm Tân Tỵ, Tân Hợi. Ở trên, Quyết âm phong mộc Tư thiên; ở giữa, Thiếu vũ thủy vận; ở dưới, Thiểu dương tướng hỏa Tại toàn.
Võ hóa, phong hóa thắng và phục, đồng, đó là hóa độ cua tà khí. Phong hóa ba(163), hàn hóa một(164), hỏa hóa bảy(l65), đó là chính hóa độ. về hỏa, ở trên thì tân và lương; ở giữa thì khổ và hòa; ở dưới thì hàm và hàn.
Những năm Nhâm Ngọ, Nhâm Tý. ở trên, Thiếu âm quân hỏa Tư thiên; ờ giữa, Thái giác Mộc vận; ở dưới, Dương minh táo Kim Tại toàn.
Nhiệt hóa hai(166), phong hóa tám(167), thanh hóa bổn(168), dó là chính hóa độ. về hóa, ỏ’ trên thì hàm và hàn; ở giữa thì toan và lương; ở dưới thì toan và ôn. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Những năm Quý Vị (Mùi), Quý Sửu. ớ trên, Thái âm thấp Thổ Tư thiên; ở giữa, Thiếu chùy hòa vận; ở dưới, Thái dương hàn tluìy Tại toàn.
Hàn hóa, võ hóa, thắng và phục, đồng, đó là hỏa độ của tà khí.
Võ năm (169), hòa hóa hai(170), hàn hóa một(171), đó là hóa độ cùa chính khí. về hóa, trên thì khổ và ôn; ở giữa thì hàm và ôn; ờ dưới thì cam và nhiệt. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Những năm Giáp Thân, Giáp Dần. Ở trên Thiếu dương tướng hòa Tư thiên; ở giữa Thái cung Thổ vận; ở dưới Quyết âm phong mộc Tại toàn.
Hỏa hóa hai(172), võ hóa năm(173), phong hóa tám(174), đó là chính hóa độ. về hóa, ở trên thì hàm và hàn; ở giữa thì hàm và hòa; ở dưới thì tân và lương. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Nhũng năm Ắt Dậu, Ất Mão. Ở trên, Dương minh táo Kim Tư thiên; ở giữa Thiếu dương Kim vận; ở dưới Thiếu âm quân hỏa Tại toàn.
Nhiệt hóa, hàn hóa, thắng và phục đồng, đó là hóa độ của tà khí. Táo hóa bổn(175), thanh hóa bốn(176), nhiệt hóa hai(177), đó là chính hóa độ. về hóa, ở trên thì khổ và tiểu ôn; ở giữa thì khổ và hòa; ở dưới thì hàm và hàn. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Những năm Bính Tuất, Bính Thìn. Ở trên Thái dương hàn thủy Tư thiên; ở giữa, Thái vũ thủy vận; ở dưới, Thái âm thấp Thổ Tại toàn.
Hàn hóa sáu(178), võ hỏa năm(179), đó là chính hóa độ. về hóa, ở trên thì khổ và nhiệt; ờ giữa thì hàm và ôn; ờ dưới thì cam và nhiệt. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Những năm Đinh Tỵ, Đinh Hợi. Ở trên, Quyết âm phong mộc Tư thiên; ờ giữa thiếu giác Mộc vận; ờ dưới, Thiếu dương tướng hỏa Tại toàn.
Thanh hóa, Nhiệt hóa, thắng và phục, đồng, đó là hóa độ của tà khí. Phong hóa ba(180), hỏa hóa bảy(181), đó là chính hóa độ. về hóa, ở trên thì tân và lương; ở giữa thì tân và hòa; ở dưới thì hàm và hàn. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Những năm Mậu Tý, Mậu Ngọ. ở trên, Thiếu âm quân hỏa Tư thiên; ở giữa, Thái chùy hỏa vận; ở dưới, Dương minh táo Kim Tại toàn.
Nhiệt hóa bày(182), thanh hóa chín(183), đó là chính hóa độ. về hóa; ở trên thì hàm và hàn; ờ giữa thì cam và hàn; ở dưới thì toan và ôn. Những năm Kỷ Sửu, Kỷ Vị (Mùi). Ở trên, Thái âm thấp Thổ Tư thiên; ở giữa, Thiếu cung Thổ vận; ở dưó’i, Thái dương hàn thủy Tại toàn.
Phong hóa, thanh hỏa, thắng và phục, đồng, đó là hóa độ cùa tà khí. Võ hóa năm(184), hàn hóa một(185), đó là chính hóa độ. về hóa, ở trên thì khổ nhiệt; ở giữa thi cam và hòa; ở dưới thì cam và nhiệt. Đỏ là thích nghi về thực vụ và dược phẩm.
Những năm Canh Dần, Canh Thân. Ờ trên, Thiểu dương tướng hỏa Tư thiên; ở giữa, Thái thương Kim vận; ở dưới, Quyết âm phong mộc Tại toàn,
Hỏa hóa bày(186), thanh hóa chín(187), phong hóa ba(188), đó là chính hóa độ. về hóa, ở trên thì hàm và hàn; ỏ’ giữa thì tân và ôn; ờ dưói thì tân và lương. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Nhũng năm Tân Mão, Tân Dậu. Ờ trên, Dưong minh táo Kim Tư thiên; ò giũa Thiếu vũ thủy vận; ờ dưới Thiếu âm quân hỏa Tại toàn.
Võ hóa, phong hóa, thắng và phục, đồng, đó là hóa độ của tà khí, thanh hóa chín(189), nhiệt hóa bẩy(190), hàn hóa một(191), đó là chính hóa độ. về hóa, ở trên khổ và tiểu ôn; ở giữa khổ và hòa; ở dưới hàm và hàn. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Những năm Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, ở trên, Thái dương hàn thủy Tư thiên; ở giữa Thái giác Mộc vận; ở dưới Thái âm thấp Thổ Tại toàn.
Màn hóa sáu(192), phong hóa tám,(193), võ hóa năm(194), đó là chính hóa độ. về hóa, ở trên thì khổ và ôn; ở giữa thì toan và hòa; ở dưới thì cam và ôn. Đó là thích nghi về thực vị và dược phẩm.
Những năm Quý Tỵ, Quý Hợi. Ở trên, Quyết âm phong Mộc Tư thiên; ở giữa, Thái giác hỏa vận; ở dưới, Thiếu dương tướng hỏa Tại toàn.
I làn hóa, võ hóa, thắng và phục, đồng, đó là hóa độ cùa tà khí. Phong hóa ờ tám,(195), hỏa hóa hai (196), đó là chính hóa độ. về hóa, ở trên tân và lương; ở giữa hàm và hòa; ở dưới hàm và hàn. Đó là thích về thực vi và dược phẩm.
Trở lèn là những “kỷ” có định kỳ, thắng và phục, chính và hỏa, đều có thirơng số, phải xét cho kỹ. Cho nên, nếu biết được cốt yếu, chi nói một điều đã dù; không biết được cốt yếu, sẽ lưu tán không biết đến đâu là cùng(197).
Hoàng Đế hỏi:
– Khí cùa năm vận, cỏ báo phục tuế khí chăng?(198)
Kỳ Bá thưa rằng:
– Uất cực sẽ phát, đợi thời mà sinh.(199)
– Xin cho biết rõ như thế nào?
– Cái khí năm thường (tức là vận), vì có thải quá, bất cập, nên sự phát ra khác. Thái quá thì bạo, bất cập thì từ. Bạo thì bệnh nặng, từ thì bệnh đứng (vững không nặng lắm)(200).
– Thái quá với bất cập, số nó như thế nào?
– Thái quá thì theo số “thành”, bất cập thì theo số “sinh”. Thổ thì thường là “sinh”.
Hoàng Đế hỏi:
– Phát ra như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Thổ uất phát ra, sẩm vang hang núi, khí giao dồn dập; bụi tối vàng đen, hỏa thành khí trắng, tràn khắp cao sâu; gió thổi cát bay, nước sóng đầy ràn. mưa tuôn tầm tã. Thời kỳ đó, mới sinh, mới hóa, mới trưởng, mới thành. Sẽ phát các chứng bệnh: tâm phúc trướng (bụng to vượt), trường minh (sôi bụng), đại tiện luôn (tức kiết lỵ), quá lắm thì Tâm thống, đầy sưng ở hiếp; ẩu, thổ, hoắc loạn; đình ẩm (nước nghẽn ở hung ức), chú hạ (tiết tả), chân sưng, minh nặng. Mây theo mưa xuống, giáng ùng chiêu dương (giáng che Phù ánh mặt trời buổi sớm); núi trầm khói tỏa. Khi mới phát do ở bổn khí. Mây vắt ngang trời, lúc không lúc có. Đó là tiên triệu(202).
Kim uất phát ra, trời đất trong sáng, gió mát, khí lạnh; hơi may hiu hắt, cỏ cây khói tỏa; táo khí lưu hành; sương sa, mọc xuống, sái khí phát sinh. Ở con người sinh ra các bệnh: khái nghịch; Tâm, hiếp mãn, dẫn xuống Thiếu phúc, hay bạo thống không thể trờ mình; ách Can, sắc mặt sạm xĩnh. Đất nút, sương nhiều, về khí “ngũ”, hễ thấy: đêm rơi móc lạnh, tiếng gió vi vu, đó là tiên triệu(203).
Thuỷ uất phát ra, Dương khí rút lui, Âm khí trỗi dậy; gió bấc như gào, mặt sông nước đóng; từng không mù mịt, mặt đất tiêu điều. Con người trong thời kỳ đó, sẽ phát sinh các chứng bệnh: hàn khác (khí hàn phạm vào), Tàm thống, yêu chùy thống, quân tiết không lợi, co duỗi khó khăn, hay quyết nghịch, bĩ kiên (bí đại tiểu và bụng cứng), phúc mãn… Khí đó phát ra ở nơi trước sau “hai hỏa”. Hễ thấy, từng không đen tối, sắc người đcn, vàng. đó là tiên triệu(204).
Mộc uất phát ra, thái hư mù mịt, mây khói tung bay, gió thổi ào ào, cầy rưng, nhà chuyển.. Do biến cùa Mộc, khiến con người mắc bệnh ; vị quàn thống, đau ngang hai hiếp; cách, yết không thông, uống ăn khó khăn; quá lắm thì tai ù, mắt hoa, trông ra không tỏ, thưòng khi chết ngất. Khí nỏ không nhất định, đường dài cỏ lưót, cây cao bóng râm, núi cao thông ngậm, rừng sâu hổ gầm. đó là tiên triệu1205′.
Hỏa uất phát ra, từng không u ám, che lấp vừng ô; viêm hỏa lưu hành, đại thử thoảng đến. Thấp hóa về sau, cho nên dân mắc bệnh thiểu khí, thưorig, dương, ung, thũng, hiếp, phúc, hung, bổi mặt, mắt, tử chi… đều sưng trướng; lại thêm ẩn nghịch, khiết, túng; cốt thống, chú hạ (tà), ôn ngược; phúc trung, bạo thống, huyết giật (huyết tràn, như thổ huyết hoặc tiện huyết v.v…), lưu chú (trong mình sưng lên từng quầng); tinh, dịch ít mắt đỏ. Tâm nhiệt, quá lắm thì mâu muộn, úc nùng (trong lòng buồn bực, rộn rục) hay bao tử ; về khí cuối cùng biến ra đại ôn, chân lông đẫm ưót. Khí đỏ “tứ động”. Phục thì tĩnh. Dương cực quay lại âm, thấp bệnh sẽ hóa. Núi sông băng tuyết, trầm sâu hơn âm, đó là tiên triệu(206).
Cỏ cái úng cùa uất, rồi mới có báo. Phải nhận ở lúc cực, rồi mới có phát. Mộc phát, không có thời kỳ nhất định, vì là Thủy theo Hỏa vậy(207).
Kỹ xét ở thời, bệnh có thể dự biết. Nếu lỡ với thời trái với tuế năm khí không lưu hành, khiến cho cái chính lệnh sinh, hóa, thâu, Tàng cũng không được đúng với lẽ thường(208).
Hoàng Đế hỏi:
Thủy phát mà bộc, tuyết (mưa đá và tuyết); Thổ phát mà phiêu, sậu (vỡ, lở); Mộc phát mà hủy, chiết (đổ, gẫy); Kim phát mà thanh minh (trong sáng); Hòa phát mà huân, muội (nóng bức, tối tăm). Khí nào gây nên thế?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Khí có nhiều, ít, phát có vi “nhỏ”, thậm (quá), “vi” là đúng với khí, “thậm” là kiêm cả dưới. Kiêm cà dưới, là do nhân ở khí mà biết(209).
Hoàng Đế hỏi:
– Năm khí phát ra, không đúng với vị, là vì sao?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Vì chính lệnh có chỗ sai suyễn.
– Chỗ sai suyễn đó, có nhất định không?
– Nếu chậm lại sau, đều ba mươi độ có lẻ.(210).
Hoàng Đế hỏi:
Kỳ Bá thưa rằng:
– Vận thái quá thì đến trước, nếu bất cập thì đến sau, đỏ là thường hậu.
– Đúng thời mà đến, như thế nào?
– Không thái quá, không bất cập, là đến đúng với thời (mùa), trái vậy sẽ là tai sảnh.
– Khí, có khí không phải thời mà hóa, là thế nào?
– Thái quá ấy đúng với thời, bất cập ấy theo với “kỷ thắng”.
– Khí cùa bốn mùa, lúc đến có sÓTn có muộn, có cao có thấp, có tả có hữu. Hậu nó như thế nào?
– Hành có nghịch thuận, đến có chậm chóng, cho nên thái quá thì hóa Tiên thiên, bất cập thì hóa Hậu thiên(211)
– Sự lưu hành như thế nào?
Xuân khí đi về phưcmg Tây, hạ khí đi về phương Bắc, thu khí đi về phương Đông, đông khí đi về phương Nam. Cho nên, xuân khí bắt đầu từ dưói, thu khí bắt đầu từ trên, hạ khí bắt đầu ở giữa, đông khí bất đầu ờ ngọn (tiêu). Xuân khí bắt đầu đi từ bên tả, thu khí bắt đầu đi từ bên hữu, đông khí bắt đầu đi từ phía – sau, hạ khí bắt đầu đi từ phía trước. Đó là sự thường về chính hóa cùa bốn mùa. Cho nên ở nơi chí (rất) cao, đông khí thường có luôn, ở nơi chí hạ, xuân khí thường ở luôn. Phải suy xét cho tinh tường mới được(212).
Hoàng Đế hỏi:
– Sự ứng hiện cùa năm vận, sáu khí. và sự chính cùa lục hóa, các kỳ cùa lục biến… như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Sáu khí có chính kỷ, có hóa, có biến, có thắng, có phục, có dụng, cỏ bệnh, “hậu” đều không giống nhau, Đc muốn biết vồ đường nào?
Hoàng Đế nói:
– Xin Phu Tử cho biết cả.
Kỳ Bá thưa rằng:
– Phàm, khí khi dẫn đến: Quyết âm đến là hòa bình, Thiếu âm đến là huyên hòa (ấm áp), Thái âm đến là khảm nhục (nóng bức), Thiếu dương đến là viêm thử, Dương minh đến là thanh kính (mát mẻ, cứng cáp, tức là Kim khí), Thái dương đến là hàn phần (rét lạnh). Đó là sự thương của thời hóa(213).
Quyết âm đến nơi là phong Phù, là môn khải (mở mang); Thiếu âm đến nơi. là hỏa Phù, là thư vinh (thư thái, tươi tốt); Thái âm đến nơi là võ Phủ, là viên doanh (đầy đù); Thiếu âm đến nơi là nhiệt Phù, là hành xuất (đưòng lối của khí dẫn ra); Dương minh đến nơi là tư sái Phủ, Canh thương (thay đổi, cỏ cây tới mùa thu thì sắc xanh thay đổi); Thái dưong đến nơi là hàn Phủ, là quy Tàng. Đó là đường lối thường cùa sự tư hóa.
Quyết âm đến nơi là sinh nở, là gió lay; Thiếu âm đến nơi là tươi tốt, là hình hiện; Thái âm đến nơi là hóa, là mây mưa, Thiếu âm đến nơi là trường dưỡng, là tốt tươi; Dương minh đến nơi là thâu liềm, là sương móc; Thái dương đến nơi là quy Tàng, là kín đáo.
Quyết âm đến nơi, trước là phong sinh, sau là túc sai; Thiếu âm đến nơi, trước là nhiệt sinh, sau là âm hàn; Thiếu âm đến nơi, trước là thấp sinh, sau là chú võ (mưa gió, xuống); Thiếu dương đến nơi, trước là hỏa sinh, sau là oi bức; Dương minh đến noi, trước là táo sinh, sau là thanh lương; Thái dương đến nơi, trước là hàn sinh, sau là ôn hòa. Đó là sự thường cùa đức hóa.
Quyết âm đen nơi là mao hóa (hóa sinh loài có lông); Thiếu âm đến noi là vũ hỏa (hóa sinh loài có cánh); Thái âm đến nơi là quả hóa (hóa sinh loài thú và người); Thiếu dương đến nơi là vũ hóa (cũng loài có cánh); Dương minh đến nơi là giới hóa (hóa sinh loài có vỏ như trai ốc); Thái dưong đến nơi là lân hóa (loài có vẩy như cá). Đó là sự thường cùa đức hóa.
Quyết âm đến noi là sinh hóa (sinh sôi nẩy nở); Thiếu âm đến nơi là vinh hóa (tươi tốt); Thái âm đến nơi là nhu hóa (hóa ra khí ẩm ướt); Thiếu dương đến nơi là mậu hóa (rậm tốt); Dương minh đến nơi là kiên hóa (cứng bền); Thái dương đến nơi là Tàng hóa. Đó là sự thường cùa truyền bố chính lệnh.
Quyết âm đến nơi là phiêu nộ, là mát nhiều; Thiếu âm đến nơi là đại huyên, hàn (rất ấm và rét); Thái âm đến nơi là sấm sét, mưa to, gió lớn; Thiếu dương đến nơi là gió to, bốc cháy đọng sương. Dương minh đến nơi là cỏ cây lá rụng, hoặc ôn; Thái dương đến noi là hàn tuyết, băng, bộc, bạch ai (bụi trắng). Đó là trạng thái thường cùa khí bien(214).
Quyết âm đến nơi là nhiễu động, là nghinh, tùy (đi lại, hình dung cơn gió); Thiếu âm đến nơi là cao minh diễm (ngọn lửa sáng và cao), là sưng thũng; Thái âm đến nơi là trầm âm, là bạch ai (bụi trắng), là hối, huyến (tối tăm, ấm áp); Thiếu âm đến nơi là quang hiển (sáng, tỏ), là đồng vân (mây do nước bốc lên), là huân (ấm áp); Dương minh đến nơi là yên ai (khói, bụi), là sương móc, là kính thiết (hanh hái), là thê minh (hiu hắt, quạnh quẽ); Thái dương đến nơi là Cương cố (cứng bền), là kiên mang (giá lạnh). Đó là lệnh thường cùa sáu khí, thi hành ra bốn mùa.
Quyết âm đến noi là lý cấp; Thiếu âm đến nơi là dương chẩn, thân nhiệt; Thái âm đến nơi là tích ẩm, là bĩ cách; Thiếu dương đến nơi là sị, ẩu, là thương dương (lở láy); Dương minh đến nơi là phù hư, Thái dương đến nơi là co duỗi không lợi; Đó là những bệnh tluròng về mùa xuân(215).
Quyết âm đến noi, gây nên chứng chỉ thống (đau ở hung và hiếp); Thiếu âm đến nơi, gây nên chứng kinh, ổ hàn, run rẩy, nói mê (sảng); Thái âm đến nơi gây nên chứng súc mãn (như xúc huyết và đầy); Thiếu dương đến nơi, gây nên chúng kinh táo, inâu, muội, bạo bệnh; Dương minh đến nơi, gây nên chúng cầu (đau ở sống mũi) và các chúng đau ở xương khu, đầu gốc, đùi, xương ổng chân; Thái dương đến nơi, gây nên chửng yêu thống. Đó là bệnh thường cùa mùa hạ.
Quyết âm đến nơi, gây nên chứng liễu lệ (bị lệch bóng đái không tiểu tiện được); Thiếu âm đến nơi, gây nên chứng hay thương, nói càn, huyết ra đằng mũi hoặc ở mắt; Thái âm đển nơi gây nên chứng chung mãn, hoắc loạn, thổ, tả, Thiếu dương đến nơi, gây nên chứng hầu tý, nhĩ minh (ù tai), ẩu thổ; Dương minh đến’nơi, gây nên chứng hiếp thống, thuân yết (rộp da); Thái dương đến nơi, gây nên chứng tẩm hãn (ngủ ra mồ hôi) và kinh. Đó là bệnh thường của mùa thu.
Quyết đến nơi, gây nên chứng hiếp thống, ẩu và tiết; Thiếu âm đến nơi, gây nên chứng nói nhiều và hay cười; Thái âm đến nơi, gây nên chứng phù thũng; Thiếu dương đến nơi, gây nên chứng bạo chú (tả mạch), khiết túng vào bạo tử; Dương minh đến nơi, gây nên chứng cừu, xị; Thái dương đến nơi, gây chứng lưu tiết, tiểu tiện bất cấm. Đó là những chứng thường về mùa đông(216).
Phàm 12 biến bệnh trên đây, đều là lấy đức để báo đức, lấy hóa để báo hóa, lấy chính để báo chính, lấy lệnh để báo lệnh. Khí cao thời cao, khí thấp thời thấp, khí sau thời sau, khí trước thời trước, khí trong thời trong, khí ngoài thời ngoài. Đều có thường vị.
Cho nên phong thắng thời động, Hỏa thắng thời thũng, táo thắng thời Can (khô), hàn thắng thời phù, thấp thắng thời nhu tiết. quá lắm thời Thủy bế, phù thũng; tùy khí ở đâu, sẽ biết biển ở đẩy.
Hoàng Đế nói:
– Xin cho biết công dụng ra làm sao?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Công dụng của khí, đều theo về “bất thắng” mà làm hóa. Cho nên Thái âm võ hóa, truyền sang Thái dương; Thái dương hàn hóa, truyền sang Thiếu âm; Thiếu âm nhiệt hóa, truyền sang Dương minh; Dương minh táo hỏa, truyền sang Quyết âm; Quyết âm phong hóa, truyền sang Thái âm. Đều nhân nó ở đâu để mà nghiệm xét(217).
Hoàng Đế hỏi:
– Tự đúng được bàn vị, như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Giữ được đúng bản vị, đỏ là thường hỏa.
– Xin cho biết ở đâu?
– Xét vị cùa nó về tháng nào, phương nào, thời có thể biết được(218).
Hoàng Đế hỏi:
– Khí cùa sáu vị, doanh, hư như thể nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Đó là do thái (quá), thiểu (tức bất cập), khác nhau. Khí “thái” đến, thong thà mà là thườnc, khí “thiếu” đến, cấp tốc mà là vong (mất, chết).
Hoàng Đế hỏi:
– Khí cùa trời đất, doanh, hư như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Thiên khí bất túc, địa khí sẽ theo, địa khí bất túc, thiên khí sẽ theo. Vận ở khoảng giữa mà thường đến trước. Ghét cái bất thắng, theo về cái đồng hóa, theo vận về thuận mà sinh ra bệnh. Cho nên, trên thắng thời thiên khí giáng mà xuống, dưới thẳng thời địa khí đổi mà lên, do nhiều, ít mà phân vị có sai lệch. “Vi” thời sai nhỏ, “thắng” thời sai lớn, quá lắm thời ngôi đổi, khí giao. “Đổi” thời đại biến sinh ra mà gây nên tật bệnh. Đại yếu nói: “thậm kỷ năm phàn, vị kỷ bày phần. Sự sai lệch cỏ thể biết được(219).
Hoàng Đế hỏi:
– Luận nói: “Nhiệt, đừng phạm nhiệt; hàn, đừng phạm hàn”. Tôi muốn không lánh xa hàn, không lánh xa nhiệt. thời như thể nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Phát biểu, không phải lánh xa nhiệt; công lý, không phải lánh xa hàn.
Hoàng Đế hỏi:
– Không phát biểu, không công lý, mà phạm hàn, phạm nhiệt, thời như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Hàn, nhiệt phạm vào bên trong, bệnh sẽ nặng thêm.
– Xin cho biết bệnh như thế nào?
– Chưa có bệnh thời sẽ sinh ra, đã có bệnh thời nặng thêm.
– Sinh ra như thế nào?
– Không lánh xa nhiệt, thời bệnh nhiệt.đến; không lánh xa hàn, thời bệnh hàn đến. Bệnh hàn đến; thời những chứng: kiên, bĩ, phúc mãn, thống cấp và hạ lợi v.v. sẽ sinh ra. Bệnh nhiệt đến thời những chứng: thổ, hạ, hoắc loạn, ung thư, thương dương, mâu muộn, chú hạ, khiết túng, thũng trướng, ẩu, cừu, nục, đầu thống, cốt tiết biến, huyết giật, huyết tiết, lâm bí v.v. sẽ sinh ra.
Hoàng Đế hỏi:
– Phương pháp trị liệu như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Thuộc về bốn mùa thời thuận theo. Nếu phạm, thời dùng cái “thắng” để trị(220).
Hoàng Đế hỏi:
– Đàn bà trọns thân (tức có thai) dùng vị cỏ chất độc, như thể nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Nếu có bệnh thời không hại, nhưng cũng đừng quá dùng mới thật không hại. Tỷ như những chứng đại tích, đại tu, thời cần phải phạm. Nhưng bệnh bót quá nửa thời thôi. Nếu dùng quá sẽ chết(221).
Hoàng Đế hỏi:
– Nếu uất quá, thời liệu trị thể nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Mộc uất thời đạt nó ra, Hỏa uất thời phát nó ra, Thổ uất thời đoạt (dẹp) bớt đi, Kim uất thời thiết bỏ đi, Thủy uất thòi chiết nó xuống. Phải điều hòa cái khí, quá thời dùng nó để chiết đi. Chiết, cũng tức là tà (như dùng toan để tà Can, dùng tân để tả Phế, dùng hàn để tả Thận v.v.
Hoàng Đế hỏi:
– về phương pháp giả tá, như thế nào?
Kỳ Bá thưa rằng:
– Có giả tá cái khí, thời cũng không cấm, tức là do chủ khí bất túc, thời khách khí thắng vậy(222).
CHÚ GIẢI:
(1) “Sáu sự hóa” tức là nói về Tư thiên, Tại toàn, đều có sự hóa sáu khí; “Sáu sự biến” là nói về sự biến cùa thắng và chế. “Thắng với phục” là nói về khí cùa năm vận đều có sự thắng phục về các khí chù tuế, do đó sự chù trị không được toàn. Đcn như năm Vị, sinh hóa có hậu bạc, thành thục có nhiều ít, trước sau đều có chế, có thắng, có sinh, có thành khác nhau v.v…
(2) “Năm vận” tức là nói về hóa vận cùa năm hành. Hóa vận đó, hoặc theo về năm khí, như: những năm gọi là Phu hòa, Thăng minh, Tĩnh thuận, Thẩm bình v.v. Nlũrne năm đó đều thuộc về năm vận hòa bình, với sáu khí không có sự gì tương phạm. “Hoặc trái thiên khỉ”. tỳ như những năm Bính Tý, Bính Ngọ, Tư thiên thuộc về Hỏa vận mà lại thi hành Thủy vận; những năm Giáp Thìn, Giáp Tuất Tư thiên thuộc về Thủy vận, mà lại thi hành Thổ vận v.v. “Hoặc thuận thiên khí, hoặc thuận địa khí”. Đó là nói về thái quá mà thuận, thiên khí có ba vận; bất cập mà đồng địa hóa cũng có ba vận; thái quá mà đồng địa hóa có ba vận, bất cập mà đồng địa hóa cũng có ba vận. Tất cả hai mươi bốn năm đó, với thiên khí tương phù, với địa khí tương hợp. “Hoặc nghịch thiên khí, hoặc nghịch địa khí v.v” là nói về: trừ những năm Thiên phù, Tuế hội, mà cùng với cái khí Tư thiên, Tại toàn không tương hợp. “Hoặc tương đắc hoặc không tương đắc” là nói về cái khí cùa (1) bốn mùa như phong, ôn, hỏa đồng với xuân; nhiệt, huân (nóng bức), hóa đồng với hạ; thanh lộ (xương mọc) hóa đồng với Thu; mây mưa hóa đồng với Trường hạ; băng tuyết hóa đồng với đông v.v. Đó là khách khí với thời khí tương đắc với nhau. Như: Chủ khí bất túc, khách khí lại thẳng được, thế là ‘khách khí với thời khí không tương đắc với nhau. “Xuất kỷ cùa trời v.v.”, tức là khiến cái khí Tư thiên, Tại toàn, trên dưới quân bình với nhau “Trời đất thăng giáng v.v.” là nói về: đã thăng mà giáng, đã giáng lại thăng. Cái khí cùa trời đất thay đổi như vậy, không hề sai lệch. – về năm vận sáu khí phải có sự của đức, hóa, chính, lệnh; nhưng lại cũng có sự biến dịch về râm, thẳng, uất, phục. Giờ muốn cho khí vận hòa bình, cần phải dùng năm Vị để hoặc chiết (bẻ xuống), hoặc tư (giúp), hoặc ích (thêm lên), hoặc ức (nén xuống). Cho nên mới nói là “điều với chính Vị” v.v.
(3) “Trước phải lập lấy niên v.v.” tức là nói về phải nhận định cái năm đó là thuộc về thiên Can hay địa chi v.v. “Số vận hành” là nói về năm vận cùng nối nhau, cứ chọn năm rồi chu mà lại bẳt đầu; “Ngự hóa v.v.” là nói về sáu khí có sự thưọng lâm cùa Tư thiên, có sự hạ ngự cùa Tại toàn, và có chù khí của bốn mùa, có khách khí gia lâm v.v.
(4) Đây nói tóm cả sự chù tuế và chủ thời cùa sáu khí. Chù tuể thuộc về Tư thiên, Tại toàn; chù thời thuộc về chù khí, khách khí; sáu khí, dù đều có chia bộ, mà cái khí Tư thiên lại chù của một năm, cho nên nói: “Phàm cái chính cùa những năm Thái dương Tư thiên v.v”. Tý, Ngọ, Dần, Thân, Thìn, Tuất, v.v. là sáu năm thuộc dương, khí chù về thái quá; Sửu, Vị, Mão, Dậu, Tỵ, Họi là sáu năm thuộc Âm khí chủ về bất cập. Phàm cái khí chủ tuế chù thời thuộc về năm thái quá, đều trước thiên thời mà đến; thuộc về năm bẩt cập, đều sau thiên thời mà đến. Cho nên nói: “Vận thái quá đến trước, vận bất cập đến sau”. Vì Thái dương hàn thủy Tư thiên, nên thiên khí nghiêm túc. Thái âm thấp thổ Tại toàn, nên địa khí yên tĩnh. Vì “hàn khí tràn ngập thái hư”, nên Dương khí không phát triển được chính lệnh. Vì “Thủy Thổ hợp đức”, nên trên ứng với Thần tinh, Chấn tinh, về “loài cốc chù về sắc đen vàng”, vì nó cảm cái khí Tư thiên, Tại toàn, nên đã tới kỳ thành; “Trầm không dương diễm” là nói về sinh dương ở trong âm, bị cái khí hàn Thủy nỏ chèn nén. Bời cái “Nhị chi khí” là Thiếu âm quân Hỏa chù khí, nhân “hàn chính phát nhiều” nên phải đợi thời mới có thể phát. Đợi thời, đến “Ngũ chi khí” thuộc Thiếu âm về gián khí tư lệnh mới lại phát. Đó là nói về cái chủ khí cùa bổn mùa bị khí tư thiên nó thắng “Thiểu dương chừ trị ờ khoáng giũa V.V.”, là nói về Thiếu dương tướng hỏa, chù về “Tam chi khí” mà lại bị hàn thủy gia lâm, vì đó nên “mưa nhuần sẽ ngớt”. Đó là chù khí cùa bốn mùa, mà lại bị cái khách khí gia lâm nó thắng. Nửa năm về trước, thiên khí làm chù; nữa năm ve sau, địa khí làm chù. Mà ba cái khí gia lâm, lại chù về hàn thủy, “Tứ chi khí” thuộc Thái âm, vì vậy cái khí hàn Thủy, đến “tam khí” thì ngừng, sẽ giao với “tứ khí” cùa Thái âm. Thái âm đến đâu, sẽ thành mây mưa. “Mây về Bẳc cực v.v.” là nói về cái Tại toàn, vận hóa lên trên. “Nhuần thấm muôn vật v.v.” là nói khí thấp thổ tràn khắp ở dưới. “Hàn khắp ở trên v.v.” là nói về cái Thái dương hàn Thủy đóng ở trên; “Sấm động ở dưới v.v.” là nói về Hỏa khí cùa Thiếu âm, lại ờ bên hữu Thái âm, đến “ngũ khí” mà mới phát. “Dân sinh v.v.” đều do cái khí hàn Thủy mà gây nên.
(5) Từ đây trở xuống, chia bàn cái gián khí gia lâm. Gián khí để kỷ bộ (ghi từng bộ); mà “sơ khí” bẳt đầu từ Thiếu dương. “Khí đất thay đổi v.v.” là nói về: cái “chung khí” Tại toàn từ năm trước, mà giao với cái “sơ khí” Tư thiên năm nay. “Chung khí” năm trước là Thiếu âm quân hỏa, “sơ khí” năm nay là Thiếu dương tướng hỏa. Hai thứ Hỏa cùng giao nhau cho nên khí “đại ôn”; “loài cỏ sớm tốt” là vi trường khí thịnh (trưởng khí là cái khí sinh trưởng, tức là khí cùa Hỏa, khí cùa mùa hạ); mới giao tới mùa xuân mà đã đại ôn, nên dân phát sinh các bệnh lệ và ôn bệnh v.v.
(6) “Nhị chi khí” tức là Dương minh táo Kim gia lâm, cho nên “đại lương” (rất mát, Kim khi thuộc thu nên mát) “lại đến”. Vì hóa viêm nhiệt làm thanh hrơng, nên mới nói là “lại đến”. “Loài cỏ gặp lạnh v.v.” là nói về hàn khí ờ dưới: “trung với hạ” có khí hàn lương, nên cái Hỏa khí thượng lâm mới bị chèn nén. Bời cái gián khí Tư thiên, bao giờ cũng từ dưới giao lên trên. “Mắc bệnh khí uất và trung mãn v.v.” là vì Dương khí bị át ức ờ bên trong. “Khí hàn mới bắt đầu v.v.” là nói về cái hàn khí Tư thiên, từ “nhị chi khí” mới bất đầu. Thế là cái khí Tư thiên lại bị Gián khí nó thắng vậy.
(7) Cái khí Tư thiên hàn Thủy gia lâm lên “Tam khí”, cho nên bấy giờ “thiên khí mới tán bố V.V.”. Mùa hạ nên nhiệt mà lại bị hàn khí gia lâm, nên dân mới mắc bệnh hàn mà bên trong lại nhiệt. Các chứng ung thư, mâu muộn v.v. đều do Hỏa uất mà sinh ra, nếu không kịp chữa, sẽ như mình tự đốt mình mà chết.
(8) Cái khí gia lâm là Quyết âm phong Mộc; cái “tứ chi chủ khí” lại là Thái âm thấp Thổ. Vì vậy nên phong với .thấp mới giao tranh. “Phong hóa làm vũ (mưa) v.v.” là cái khí gia lâm theo thời mà hóa; về khoảng mùa hạ, mùa thu giao nhau, thấp Thổ chủ khí, cho nên “mới trường, mới hóa, mới thành”. Đó là vì mùa hạ thì chù về việc sinh trường, mùa thu thì chù việc thâu thành, mà mùa Trường hạ thì chủ về việc hóa sinh vậy. “Dân mắc bệnh đại nhiệt v.v.” đều là những bệnh thuộc về phong nhiệt. “Nhục nuy, túc nuy v.v.” là những chứng thuộc về khí cùa thấp Thổ; “Tiết tả v.v.” là một chứng do thấp với nhiệt cùng nung nấu mà sinh ra.
(9) “Nhị chi khí” là Thiểu dương quân Hỏa, bị cái khí hàn lương nó gia lâm, mãi tới “ngũ khí” mới lại chù trị nên mới nói: “khí dương lại hóa” tức là những biến tượng “trằm lầy không dương diễm V.V.”. Vì Hòa khí lại hóa nên loài thào mới “trưởng”. Cái khí thấp Thổ, chù nửa năm về sau, cho nên mới “hóa”; cái “Ngũ chi chủ khí” thuộc Dương minh táo Kim, cho nên mới “thành”; Hỏa uất thì phát tiết ra, nên dán mới dễ chịu.
(10) Cái khí Tại toàn, lâm lên “chung khí”, cho nên địa khí chính ngôi mà thấp lệnh thi hành. “Khí âm hàn tràn ngập thái hư v.v.” là nói về cái khí Thái âm vận lên ờ trên. “Khói bụi kháp đồng ruộng v.v.” là nói về cái hóa cùa thấp Thổ phân tán ở bên dưới. “Dân mới buồn bã v.v.” là nói về cái khí ẩm thấp lưu hành ở khoảng giữa (trung). “Gió rét đã đến v.v.” là Thồ bị phong Mộc nó thắng, nên các loài thai đựrm mới khôna thành. Tức là cái tà khí trái mùa, lại thắng được cái khí chù thời vậy.
(11) Khổ là Vị cùa Hỏa; Hỏa có thể lảm ẩm được hàn; khổ có thể làm thắng được thấp. Vậy, phàm thuộc về năm Thái dương Tư thiên, là do hàn thấp chù khí, cho nên, nên dùng vị láo để thắng thấp; dùng vị ôn để thắng hàn. Đó tức là bào: “điều hòa với chính Vị, khiến cho trên dưới hợp đức” vậy.
(12) “Hóa nguyên v.v.” là nói về: năm vận là cái nguồn sinh ra sáu khí; “chiết” tức là bè bỏ, dẹp xuống. Phàm những cái khí làm nên chứng uất, thì chiết bò đi. Tỳ như về năm Thái chùy (năm Mậu), Thái dương Tư thiên, thì Hỏa vận sẽ bị uất. về năm Thái vũ (năm Bính), Thái âm Tại toàn, thì Thủy vận sẽ bị uất. Cho nên phải dùng phép (táo) để chiết bỏ cái Thổ khí cùa Thái âm, dùng phép “ôn” để chiết bỏ cái hàn khí cùa Thái dương. Tất cả sáu khí, cùng theo một nghĩa như vậy.
(13) Phàm những năm thuộc về Thái dương Tư thiên, vận khí đều thuộc thái quá, cho nên phải nén bỏ cái khí “râm thắng”, mà nâng đỡ cái “sở bất thắng” lên. Như về năm Thái giác (năm Nhâm), phong Mộc “râm thẳng” thi Thổ sẽ bị chết. Vậy phải chèn bỏ cái thắng cùa phong Mộc xuống, mà nâng đỡ cái bất tháng là Thổ lên. Lại như về năm Thái chùy (năm Mậu), Hỏa vận thái quá, thì Kim khí sẽ bị chế. Vậy phải chèn bớt bỏ cái thái quá của Hỏa, mà nâng đỡ cái bất thắng cùa Kim lên. Đó tức là: “làm cho hòa cái vận, điều cái hóa, đừng để quá bạo, khiến dân sinh bệnh V.V.”. về dưới đây, các năm thuộc Thiếu dương, Thiếu âm. cũng một nghĩa như vậy.
(14) côc” tức là thứ lúa sàn xuất giũa năm ấy. Như trên nói sắc lúa “huyền, kiềm” ăn nó để giữ cho hoàn toàn cái khí nguyên chân của trời dất. “Hư tà” tức là cái gián khí phải thắng. Như cái năm Thái dương Tư thiên, “sơ chi khí” là Thiếu dương tướng hỏa, mà khí hàn lại thắng được. Vậy là hàn tà đã râm thẳng được sơ khí đó. “Nhị chi khí” là Dương minh táo Kim, mà nhiệt lại thắng được. Vậy là nhiệt tà đã dám chế được nhị khí đó. “Tứ chi khí” là Quyết âm phong mộc mà thanh lại thắng được. Vậy là táo tà dã chế thắng tứ khí đó. “Ngũ chi khí” là Thiếu âm quân hỏa, mà hàn lại thắng được. Vậy là hàn tà đã chế thắng được ngũ khí đó. Đó gọi là “tứ úy” (bốn cái sợ), phải xét cho cẩn thận.
(15) Đấy nói về cái khí cùa năm vận, với cái khí Tư thiên, Tại toàn, đều cỏ dồng (cùng) dị (khác) (hai chữ này dùng nguyên âm cho tiện), mà cái khí vị nhiều, ít cùng đều có “sờ chù”. “Đồng hàn, thấp v.v.” tức là nói về những năm Thái vũ (Bính), Thái cung (Giáp) chù vận, thẻ là với cái khí hàn tháp cùa Tư thiên, Tại toàn tương dồng, nên phải dùng nhiều vị táo, nhiệt đổ chế hóa, tức là dùng táo dồ chế thấp, mà nhiệt để hóa hàn. Lại như những năm Thái chùy (Mậu) Thải giác (Nhâm), Thái dương (Át) chù vận, thế là với cái khí hàn thấp đều dị, lại chi nén ít dùng cái khí táo thấp để làm cho hóa. Tức là dùng khí thấp để nhuận lại cái khí táo nhiệt; dùng táo để chế cái tà cùa phong mộc. Đồng thời khí thịnh nên phải dùng nhiều; dị thời khí cô (trơ trọi một mình) nên phải dùng ít.
(16) Đây nói về cái khí Tư thiên, Tại toàn và gián khí Gia lâm, đều có sự thích nghi về hàn, nhiệt, ôn, lương, mà lại cần không nên phạm. Như Thái dương Tư thiên, nên dùng nhiệt để làm cho ôn; mà “sơ chi khí” lại là Thiếu dương tướng hỏa dụng sự, vậy cần phải lánh xa cái nhiệt của Thiếu dương đã, rồi sau mới được dùng đến nhiệt. Lại như Thiếu âm Tại toàn, lẽ nên dùng hàn để làm cho “thanh” đi, mà “tứ chi khí” lại gặp Thái dương hàn thủy dụng sự, vậy cần phải lánh xa cái hàn cùa Thái dương đã, rồi sau mới được dùng đến hàn. “ôn với lương” cùng một nghĩa như vậy. “Nếu già thi làm trái lại v.v.” là nói về nếu tà khí phản thắng, thì lại không cần phải theo đúng cái nguyên tắc “xa hàn, xa nhiệt” nữa. Như: Thái dương hàn thủy Tư thiên, “sơ chi khí” là Thiếu dương tướng hòa, thế mà thiên khí lại hàn; như thể thì cứ dùng nhiệt ngay, mà không cần phải lánh xa thời kỳ nhiệt của Thiểu dương nữa. Như Thiếu âm quân hỏa Tại toàn, “tứ chi khí” là Thái dương hàn thủy, thế mà thiên khí lại nhiệt. Như thế thì cứ dùng hàn ngay mà không cần phái lánh xa cái thời kỳ hàn của Thái dương nữa. Đó tức bào là “thiên khí trái VỚI thời, thi cứ dựa theo thời” vậy.
(17) Mão, Dậu chủ về tuế vận bất cập, nên phàm Tư thiên, Tại toàn, chù khí, khách khí, đều sau thiên thời mới đến.
(18) Dương minh Tư thiên thi Thiếu âm Tại toàn. Vì Kim lệnh ở trên, nên thiên khí kính cấp (cứng gấp, hanh hái, se khô); vì quân hỏa ờ dưới, nên khí đất quang minh (sáng sùa).
(19) Dương minh ở trên, quân hỏa ở dưới, nên dương nhiệt thịnh mà mọi vật táo kiên (khô ráo và cứng rán).
Cái “sơ khí” chủ thời là Quyết âm phong mộc. Phàm thuộc về nhũng năm thái quá, khách khí thịnh nên phần nhiều theo về khách; những năm bất cập, khách khí nhược nên kiêm theo chù khí, vậy nên “thuần phong mới trị”, tức là theo cái hóa cùa “sơ khí” là phong mộc vậy. Dương minh táo Kim Tư thiên, Quyết âm phong mộc chù khí, cho nên “phong táo ngang vận”. Ngang, tức là cái khí chù khách, cùng dọc ngang với nhau, “tràn tới khí giao V.V.”. Khí giao, tức là một thứ khí “chung” (cuối, hết), ờ nửa năm về trước, mà giao với nửa năm về sau. Chù và khách của “nhị khí” là hai thứ hỏa quân, tướng; chù và khách cùa “tam khí” là (18) Dương minh, Thiếu dương, cho nên nhiều dương ít âm. “Mây theo mưa xuống v.v.” là nói về cái thấp khí của thấp Thổ bốc lên làm mây, khí trời giáng xuống mà thành mưa. Bởi “tứ chi khí” do Thái âm thấp Thổ chù khí, Thái dương hàn Thủy gia lâm, nên mới nói: “mây theo mưa xuống, thấp hóa sinh ra V.V.”. Táo kim Tư thiên, cuối cùng (chung) là “tam chi khí” mà giao với “tứ khí” là hàn Thùy thấp Thổ, vì thế nên táo cực mà lại nhuận.
(19) Do cảm cái khí Tư thiên, Tại toàn mà thành thục, tức là tuế cốc.
(20) Quang minh, thanh, thiệt là cái chính của Kim; cấp bạo là cái lệnh cùa Hỏa. Vì quân hỏa Tại toàn, nên loài chập trùng không ẩn nấp và nước chảy không thành băng “Cuống họng nghẽn v.v.” đều là những chứng bệnh cảm khi táo nhiệt mà sinh ra.
(21) Trước thanh (mát mẻ) mà rồi mới “kính” (cứng rắn). là nói về cái khí Tư thiên thịnh về nừa năm về trước; “trước nhiệt rồi mới bạo v.v.” là nói về cái khí Tại toàn, nên về nửa năm về sau. “Loài mao trùng chết v.v.” là nói về cái sự “thắng, chế” của Tư thiên, Tại toàn mà chết. Cho nên câu: “Đều có thẳng, đều có chế, đều có sinh thành, đều có thắng chế v.v.” là nói về cái thắng cùa năm vận, có thể chế được sáu khí; mà cái thảng cùa sáu khí, lại có thể chế được năm vận. Nếu bị chế thì không còn sinh, dục và cỏ khi chết nữa là khác. Nhưng ờ thiên này, chi về đoạn nói về kinh Dương minh mới ghi bốn câu đó, mà các đoạn ờ các kinh khác thì không. Đó là muốn cho kè hậu học biết vận khí lẫn cùng chế thắng, rồi ti loại mà suy ra các kinh khác vậy.
(24) Cái khí cùa Dương minh Và Thiếu âm đều chù về sự “táo”, cho nên phát ra chứng táo (như táo cấp, phiền táo v.v.). Như Hỏa thắng Kim, nếu ở nửa năm vè trước, thì Thủy sẽ báo phục Hỏa ờ nửa năm về sau. Vì vậy sự “tháng và phục” phát sinh, mà cái khí cùa tuế thì do đó thành ra đại loạn. “Khí giao” tức là cái khí Tư thiên, Tại toàn trên dưới cùng giao với nhau.
(25) “Khí đất đổi v.v.” là nói về: chung khí Tại toàn từ năm trước, đổi giao với cái “sơ khí” của năm nay. (Mấy đoạn về sau cùng một nghĩa như vậy). Cái khách khí về tuế sơ những năm Mão, Dậu là Thái âm thấp Thồ, cho nên “âm ngừng” mà “võ hóa”. Âm ngừng ờ ngoài thì dưomg uất ở trong, cho nên dân mới mắc các bệnh nhiệt trướng. Mặt phù thũng, hay ngủ v.v. là những bệnh gây nên bởi thấp Thổ. “Cầu nục v.v.” là những bệnh do khí của phong mộc gây nên.
(26) Chủ và khách của “nhị chi khí”, là hai thứ hỏa quân, tướng. Dương khí đã được tán bố, nên dân mới dễ chịu; mọi vật được sinh trưởng và tốt tươi. “Dịch lệ đến, dân hay bạo tử v.v.” là do hai Hòa cùng giao nhau mà thần lại lẩn lên trên quân vị mà gây nên.
(27) Cái Kim khí Tư thiên gia lâm, cho nên “thiên chính bố”. “Tam chi chù khí” là Thiểu dương tướng hỏa, cho nên táo với nhiệt giao hợp. “Tam chi chung khí” mà giao với hàn Thủy thấp Thổ của tứ khí, cho nên táo cực mà sinh thấp; táo, thấp, thủy, hỏa, bốn khí đó cùng giao với nhau, nên dân mắc chứng hàn, nhiệt.
(28) về gia lâm của “Tứ chi khí” khách khí là Thái dương hàn thủy, chủ khí là Thái âm thấp Thổ, cho nên hàn võ xuống. Nửa năm trở về sau, do Thiếu âm quân hỏa chù khí, lại bị khí hàn thấp nỏ tương gia (cùng lấn lên), cho nên dân mắc các chứng run rẩy, nói mê v.v. đều bời hàn thủy ngưng ở bên ngoài, Hỏa uất ở bên trong mà sinh ra.
(29) Quyết âm phong mộc gia lâm lên ngũ khí, cho nên xuân lệnh lại lưu hành. Loài cỏ được sinh khí nên lại tốt tươi; cái uất của Thiếu âm nhờ ỡ Mộc khí mà thư xướng, điều đạt, cho nên dân khí hòa.
(30) Cái khí của Thiếu âm quân hỏa, gia lâm lên Chung khí, cho nên cái Dương khí Tại toàn, được dễ thư xướng tán bổ, mà cái tiết hậu mùa đông trờ lại ôn noãn. Cho nên loài chập trùng (loài sâu nằm kín trong hang, trong ổ) không ẩn nấp, mà nước không thành băng. Địa kill được thư xướng, cho nên dân mới an khang. Nếu có tai sảnh xảy ra sẽ là bệnh ôn, tức là Đông ôn. Bệnh này với thương hàn khác nhau rất xa.
(31) “‘Tuế cốc” tức là một thứ lúa cảm thụ khí Tư thiên, Tại toàn mà sinh ra. “Gián cốc” tức là một thứ lúa cảm cải gián khí cùa trời đất mà sinh ra.
(32) Nên dùng vị hàn, dể thanh cái nhiệt cùa quân hỏa; nên dùng vị tân, để nhuần cái táo cùa Dương minh; nên dùng vị khổ để tiết bò cái Hỏa uất ở trong. Dùng phép phát hãn để giải bỏ cái hàn ờ ngoài biểu; dùng phép thanh để tiêu giải cái tà lọt vào trong; dùng phép tán dể giải bỏ cái khí Đông ôn. Vì vận khí bất cập nên phải làm cho yên, dừng để tà tháng.
(34) Chiết bỏ cái khí Tư thiên, Tại toàn để giúp cho cái hóa nguyên cùa năm vận.
(35) Dùng hàn để làm cho thanh cái hỏa nhiệt Tại toàn; dùng nhiệt để chế cái táo Kim Tư thiên. Neu “đồng” thì dùng nhiều; nếu “dị” thì dùng ít. Vậy phải xét sự khinh trọng cùa hàn nhiệt, để chế hoặc nhiều hoặc ít. Như: Nhũng vận thuộc về Thiếu chùy, Thiếu giác, cùng với các nhiệt cùa Thiếu âm, nên lấy nhiều cái khí thanh lương do thiên hóa để chế lại; nhũng vận thuộc về Thiếu dương, Thiếu cung, Thiếu vũ. cùng một cái thanh cùa Dương minh, nên lấy nhiều cái khí hỏa nhiệt do địa hóa để chế lại. (Thiên hóa tức là khí thanh lương cùa táo Kim; địa hóa tức là khí hỏa nhiệt Tại toàn).
(36) Cái khí thanh lương cùa Dương minh Tư thiên, lẽ tất nhiên là nên dùng ôn nhiệt rồi. Nếu “Nhị chi khí” lại là hai thứ hòa quân, tướng, thì lại phài cách xa thời kỳ đó 60 ngày, mới có thể dùng ôn nhiệt; cái khí Thiếu âm quân hỏa Tại toàn, lẽ tất nhiên là nên dùng hàn lương rồi. Neu chù khách cùa “tứ chi khí” lại là hàn thủy, thấp thổ thì lại phải xa thời kỳ đó 60 ngày, mới có thể dùng hàn lương “Có giả v.v.” là nói về cái khí hàn, nhiệt, ôn, lương của bốn mùa, không phải là Tư thiên, Tại toàn, với cái chính khí cùa Gián khí, lại cần phải “trái ngược lại” để điều trị. Đó là cái phương pháp làm cho điều hòa thiên, địa, âm, dương vậy. Neu làm trải phương pháp đó, sẽ làm loạn mất sự kinh thường cùa Tư thiên, Tại toàn và rối mất “kỷ bộ” cùa âm dương, gián khí.
(37) Những năm Dần, Thân chù về thái quá. Sáu khí đều trước thiên thời mà đến.
(38) “‘ khị chính”, là nói về: Thiếu dương Tư thiên, mà khí hóa lại lưu hành ờ trong khoảng “khí giao”; bởi vì “Nhị âm, Tam dương” ờ dưới, cho nên dẫu chù về Tư thiên, mà khí dẫn xuống ở khoảng giữa (trung). Tiết dưới “Quyết âm Tư thiên”, mà ghi là “địa khí chính”. Đó là nói cái khí Thiếu dương Tại toàn, mà cũng lưu hành ờ khoảng trung, vì Thiếu dương là “trung kiến” cùa Quvết âm, nên mới như vậy.
(39) Quyết: âm Tại toàn, nên địa khí nhiễu (nhiễu, tức là nhiễm loạn, do sự hành động của phong) cây đổ, cát bay v.v. Do sự hành động của phong và hỏa. Khí cùa Quyết âm, thượng hành để theo sự hóa cùa Thiếu dương, nên “mưa thường xuống”. Bời hai khí cùa Thiếu dương lưu hành đến đâu là sinh ra hòa; do hỏa sinh m oi bức; do oi bức sinh ra mưa, đó là lẽ thường cùa dửc hóa.
(40) “Nghiêm” là chính cùa hỏa, “nhiễu” là lệnh cùa phong.
(41) “Phong nhiệt cùng tán bố v.v.” là do cái khí của Thiểu dương Quyết âm, cùng tham hợp với nhau, để cùng tán bố vào trong khí giao. “Mây khói tung bay v.v.” là do địa khí bốc lên; “Thái âm tràn lan v.v.” tức là bởi sự oi bức nấu nung, rồi biến thành mưa.
(42) Cái khí phong nhiệt ở ngoài, thì cái khí hàn thấp ở trong, vì thế nên bên ngoài thì sinh mụn lở, mà bên trong thì sinh chứng hàn trung tiết, mãn. Thánh nhân gặp trường hợp đó biết làm cho điều hòa hai khí hàn nhiệt, không để cho trong ngoài giao tranh. “Vãng phục” tức là ra vào. Như khí ở trong ngoài đồng thì vãng; phục thì sẽ phát sinh ra chứng ngược hàn, nhiệt; các chứng tiết tùng, ẩu, thổ. là do cái khí phong nhiệt lấn ở bên trong; “mặt sưng và sắc biển v.v.” là do cái khí hàn thấp phạm ở bên ngoài.
(43) “Sơ chi gián khí” là Thiếu âm quân hỏa, chủ khí là Quyết âm phong mộc. Vì vậy nên phong mới động giao, khí ấm và cỏ cây sinh trưởng v.v. Thiếu dương Tư thiên mà lại gặp quân hỏa chủ khí, cho nên dù cỏ thời khí là “hàn” đưa đến, mà cũng không thể giảm bớt được sức ôn nhiệt cùa “nhị hỏa”. Các chứng “huyết giật v.v.” Đều do phong hỏa gây nên.
(44) “Nhị chi khách khí” là Thái âm thấp thổ, vì thế nên cái hỏa khí của Tư thiên lại bị uất. “Bụi bay v.v.” đều do cái hòa cùa chù khí là thấp thổ gây nên. Quyết âm phong khỉ dù theo Thiếu dương, mà cũng không thể thắng được khí “võ thấp”; vì phong hỏa khí thịnh, lại được cái khí âm thấp để hòa hợp thêm vào, cho nên dân dù an khang, mà tai sảnh thời sẽ phát ra các chứng nhiệt uất v.v.
(45) Cái khí Tư thiên, thượng lâm lên Tam khí, cho nên “thiên chính mới tán bố”; cái khí chủ thời, cũng thuộc Thiếu dương, cho nên viên hỏa đến. Vì Thái âm hoành lưu nên “mưu sẽ tràn”. Dân bệnh Nhiệt trung v.v. đều do cảm cái khí phong hỏa mà sinh ra.
(46) Gián khí gia lâm, lại là cái khí thanh lương của Dương minh, cho nên khí mát đến, bạch lô xuống; oái hòa của Thiểu dương, cùng với cái khí phong nhiệt, cùng giao nhau ờ trong khí giao, cho nên “viêm, thử gián hóa” (khí viêm, khí thử cùng biến hóa xen lẫn nhau). Phong nhiệt chủ tuế, mà lại gặp thanh lương như vậy, nên dân khí hòa bình. Còn bệnh mãn v.v. là do cảm cái khí thấp Thổ của chù thời mà sinh ra.
“Ngũ chi gián khí” là Thái dương hàn thủy, cho nên “dương nhiệt rút lui mà khí hàn đưa lại”. Vì khoảng hai mùa thu, đông giao nhau, mà thi hành cái chính sách bế Tàng cùa Đông lệnh, cho nên “khí môn mới đóng”, (tức là giữ kín cái thân)
(44) thể). Giữ gìn kín đáo để lánh hàn tà. Phàm gọi là thánh nhân quân tử v.v, là có ý tỏ ra rằng: Các bực kiến thức biết theo thời để điều dưỡng, cho khí trong mình được hòa, dù có gặp thời tiết độc dữ cũng không sinh tật bệnh.
(45) Quyết âm phong mộc chủ về “chung khí”, cho nên phong mới đển (tức là thời kỳ đó hay có gió to). “Địa khí chính v.v.” là bởi Quyết âm do trung kiến cái hóa của Thiếu dương mà nên; muôn vật gặp được “sinh khí” mà lại sinh trường, địa khí không thăng lên, nên mây khói mới lưu hành. Do dái thời kỳ bế Tàng mà lại thi hành cái lệnh phát sinh, cho nên phát các chúng quan bế v.v. (Quan bế nghĩa đen là đóng cửa, nói về một chứng bệnh bị nghẽn tắc ở vị quàn, ăn vào lại thổ ra); “Tâm thống” là do Thận khí phạm ngược lên Tâm mà sinh ra. Phế chù khí mà Thận là cái gốc sinh khí, cho nên Thận là gốc mà Phế là ngọn. Dương khí đến mùa đông thì về “tàng” (ẩn nấp) ờ Thận Tàng, giờ khí đó lại ngược phạm lên Phế, nên thành bệnh khái (ho).
(46) Vận khí thái quá nên cần phải nén xuống, “sờ bất thắng”, như năm Nhâm, Giác (thái giác) vận thái quá thì Thổ khí bất thắng; narrt’mậu hỏa vận thái quá, thì Kim khí bất thắng; cho nên phải nén bót cái thái quá, để giúp thêm cho cái “sở bất thắng”. “Chiết bỏ cái uất khí v.v.” Như những năm Canh Dần, Canh Thân, Thiếu dương Tư thiên, thì Thương vận (tức là Kim) sẽ bị uất; những năm Giáp Dần, Giáp Thân, Quyết âm Tại toàn, thì cung vận (bức là Thổ) sẽ bị uất. Vậy nên chiết bỏ cái khí gây nên uất. Trước lấy ờ cái hóa nguyên của hai vận, chiết bò cái thái quá, để giúp thêm cho cái “sở bất thắng”, nên “bạo vận” không thể sinh ra mà bệnh độc cũng không khởi lên được. “Bạo” tức là nói về cái vận khí cùa những năm Thái cung, Thái dương chủ về thái quá, mà lại bị uất, nôn phát ra quá bạo và gây thành bệnh nặng.
(50) ỏ trên: Thái dương Tư thiên, Thái âm Tại toàn, thì nói trước “dùng hàn nên xa thời kỳ hàn V.V.”; đến Thiếu dương Tư thiên, Quyết âm Tại toàn, thì nói trước: “dùng nhiệt xa thời kỳ nhiệt V.V.”. Đó là nói về phàm dược, thực thuộc về tuế vận hàn hay nhiệt, nên xa lánh cái khí Tư thiên, Tại toàn đó.
(51) Thái âm Tư thiên, hàn thủy Tại toàn, cho nên Am khí chuyên chính, mà Dương khí rút lui. Thổ lệnh bất cập, phong lại thắng được, cái khí hàn thấp cùa trời đất hỗ giao với nhau nên đồng ruộng khói tỏa, bụi trắng tung bay “Dân bệnh v.v.” đều cảm cái khí hàn thấp mà gây nên.
Thấp khí cùa Thái âm ngưng ờ trên, hàn khí cùa Thái dương tích ở dưới. Hàn Thủy thắng Hỏa, nên mới gây nên băng, bộc. Dương khí ở trên, bị âm ngưng.
(51) nó thắng, nên cái khí túc sái mới lưu hành.
(52) Đây nói về thổ địa cùa năm phương đều có cao, thấp, hậu, bạc khác nhau. Cho nên tuế khí hữu dư thì thổ địa nên cao, hậu; tuế khí bất cập thì thổ địa nên ti hạ (thấp thũng). Bời cái khí thái quá thì nên hoãn, cái khí bất cập thì nên trước; địa thổ cao hậu thì khí tiết ra hoãn; thổ địa ti hạ thì khí dễ thăng lên; khí hữu dư thì nên đến chậm, khí bất cập thì nên đến sớm. Đó là “địa lợi có cao hạ, khí đến có sớm muộn, mà dân khí cũng theo đó” vậy.
(53) Chù, khách cùa “sơ” đều là phong khí. Vậy nên địa khí cùa năm trước thay đổi, cái hàn của Đông lệnh mới thay đổi; mà xuân khí chính, gió mới tới, muôn vật mới tốt tươi v.v. Các chứng bệnh huyết giật đều do khí của phong thấp gây nên.
(54) Chủ, khách cùa “nhi” là hai thứ hỏa quân, tướng, cho nên hỏa mới thịnh. Vì Hỏa Thổ hợp đức, nên vật loại mới sinh hóa v.v.
(55) Cái khí Tư thiên “lâm” lên tam khí, mà khí hàn thấp thì “lâm” ở khí giao.
(56) “Tứ chi khách khí”, là Thiếu dương tướng hỏa; hàn thủy Tại toàn, cho nên sợ Hỏa nó gia lâm; “tứ chi chủ khí” là Thái âm thấp thổ: thấp với nhiệt cùng hợp, thì hơi nóng nung nấu mà khí đất bốc lên; cái khí ẩm thấp với Hòa khí không tương hợp, nên thiên khí bĩ cách; thấp hỏa không lưu hành được xuống dưới, nên bạch lộ âm bố mà thành thu lệnh. Các chứng bệnh phát sinh v.v. đều do ba khí hàn, thấp, nhiệt lẫn lộn dồn đến mà sinh ra.
(58) Chủ khách cùa “Ngũ” đều là cái khí thanh lương cùa Dương minh, cho nên tiết hậu hàn lãnh.
(59) Chù khách cùa “Chung” là khí hàn thủy Tại toàn, cho nên hàn khí đại cử (rét nhiều); cái khí hàn thấp, trên dưới cùng giao, nên thấp khí đại hóa.
(60) vận trát cập; “Tà khí” tức là cái khí mình “sờ bất thắng”.
(61) Khổ là Vị cùa Hòa, cho nên có thể táo được thấp và ôn được hàn.
(62) về những năm thái quá, khí, vận đều trước thiên thời mà đến. Táo kim Tại toàn, nên địa khí nghiêm khắc; quân hỏa Tư thiên, nên thiên khí quang minh. Chung khí của năm trước là Thiếu dương tướng hòa; sơ khí cùa năm nay là Thái dương hàn thủy, vậy là hàn giao với thử; mà những khí Thủy, Hỏa, hàn, nhiệt, cùng lẫn lộn ở trong khí giao, nên mới bắt đầu sinh ra tật bệnh.
(63) Các chứng khái, suyễn, thũng thượng v.v. đỏ là nhiệt bệnh sinh ra ở bộ phận trên; các chứng huyết tiết v.v. đó là thanh (cũng như lãnh hoặc hàn) bệnh sinh ra ở bộ phận dưới; các chứng vào Vị, Tâm thống v.v. là do hàn nhiệt giao tranh ở bên trong.
(64) Sơ chi khí là Thái dương hàn thủy, cho nên cái khí táo nhiệt ở năm trước sắp hết, mà mới bắt đầu hàn và chập trùng lại ẩn nấp, băng sương lại kết. Sơ chi khí là Quyết âm phong mộc, cho nên “phong mới đến”; cái khí dương xuân đã bị uất, mà dân lại kín đáo; Thái dương chủ cân, mà là Phũ của Thận, nên quan tiết và yêu chùy thống. Thời kỳ đó, giao tiếp với hai khí quân hòa, cho nên “viêm, thừ đến”.
(65) Nhị chi chù khí, hợp với Tư thiên quân hỏa, mà khách khí lại là Quyết âm phong mộc, cho nên “dương khí tán bố” và thường có gió.
(66) Tam chi chủ khí là quân hỏa, tướng hòa, cho nên thiên chính bố tán, và đại hỏa lưu hành. Hàn khí ở dưới thinh thoảng đến, nên dân mắc bệnh khí quyết, Tâm thống. Hàn khí phạm lên Phế, nên khái và suyễn. Và bạch quân hỏa bốc lên, nên mắt đỏ.
(67) là thấp thổ chù khí; hàn khí thấp nhiệt giao với nhau nên nóng bức đến và thường có mưa lớn. Các chứng ách Can, Hoàng đản v.v. đều do khí thấp nhiệt gây nên.
(68) Từ nửa năm về sau, và cái chù cùa khí “ngũ” đều thuộc Dương minh tư lệnh. Giờ bị Thiếu âm tướng hỏa gia lâm, nên úy (sơ); vi úy khí thượng lâm, cho nên “thử” lại đến, dương mới hóa v.v.
(69) Chung khí là Dương minh tư lệnh, cho nên táo lệnh lưu hành; cái dư nhiệt cùa khí giao cách trở ờ trong, nên mới thành các chứng khái, suyễn v.v. Hàn thủy chù thời, cho nên hàn khí đến luôn, hợp ờ ngoài bì tấu mà sinh bệnh. Địa chi bắt đầu từ Tý, mà sáu khí đối với Tý, Ngọ đã hết, sắp đổi đồ bàn giao sang năm vị. Cho nên nói: “Địa khí sap thay đối”.
(70) Vận khí thái quá, nên cần phải nén bớt, dổ giúp cho cái sở tháng cùa tuế khí.
(71) Hàn do thủy hóa, nên có cái năng lực làm nhuyễn (mềm) được các chất kiên (cứng), dùng để điều hòa cái quân hỏa ở trên; quá lắm thì dùng vị khô đê phát bỏ hòa uất; Kim khí chủ thâu, cho nên cần dùng vị toan cho thâu để yên bộ phận dưới; quá lắm thì dùng vị khổ cho tiết bỏ bớt khí táo.
(72) Đồng cái nhiệt khí Tư thiên, thì nên dùng hàn thanh; đồng cái thanh lương Tại toàn, thì nên dùng ôn, nhiệt.
(73) Đây nói về Quyết âm, Thiếu dương tiêu, bản cùng hợp với nhau. Thiếu dương Tư thiên thì thiên khí chính; Thiếu dương Tại toàn thì địa khí chính. Nói Quyết âm cùng với các chinh tuế của Thiếu dương. Như Quyết âm Tại toàn, thì cái khí cùa Quyết âm sẽ cùng với cái vận của Thiếu dương cùng lưu hành; Quyết âm Tư thiên, thời cái khí cùa Thiếu dương sẽ cùng với cái vận của Quyết âm Tư thiên cùng lưu hành. Cho nên nói: “Phong sinh ra ở nơi cao xa, khí viêm nhiệt nối theo”. Bởi Quyết âm Thiếu dương tiêu, bản cùng hợp, mà Quyết âm lại không theo khí hóa của Thiếu dương. Trong sáu khí, chỉ có hai khí này là tương hợp.
(74) Vì tính của phong lay động, nên “thiên khí nhiễu”; khí cùa Thiếu dương vận hành ờ trong, nên “địa khí chính” phong khí ở trên trời, nên nói: “Phong sinh ở nơi cao xa” khí của Thiểu dương trở nên cùng hợp với Quyết âm, nên “viêm nhiệt nối theo” v.v. “Mây theo mưa xuống v.v.” là nói theo về sự thắng chế cùa phong với hỏa; phong với hòa cùng theo về chính tuế, nên nói là “hợp đức”; “phục, thắng đổi thay v.v.” là nói về khí viêm nhiệt theo lẽn ờ trên, mà lại cùng xen vào ở trong khí giao. “Chập trùng bò ra v.v.” là nói về tướng hỏa Tạl toàn. Cảm phong khí thi bệnh sinh ở trên, cảm nhiệt khí thì bệnh sinh ở dưới; phong, táo thắng phục cùng lấn nhau, thì hình hiện ra ờ trong khí giao.
Án: Trên đây nói: “Sinh ờ trên”, “sinh ở dưới” và “sinh ở giữa” Mà không có đến bệnh. Đó là nói cái khí phong hỏa tràn lan ờ trên dưới mà lại hỗ giao ờ giữa. Viêm nhiệt theo lên trên, tức là con theo mẹ. “Thắng phục đổi thay v.v.” là nói về cái khí cùa Quyết âm lại quay về “chính”. Cho nên Quyết âm Tại toàn thỉ địa khí chính. Giờ Quyết âm Tư thiên mà thiên khí cũng chính, nên mới nói là: “Đồng với các chính tuế”.
(75) Sơ chi khí là Dương minh thanh Kim tư lệnh, cho nên khí hàn mới nghiêm túc mà sái khí mới đến.
(76) Nhị chi khí là Thái dương hàn thủy, vi vậy nên hàn không dứt, mà sương mới xuống. Nhị chi chủ khí là Thiếu âm quân hỏa, mà hàn thủy gia lâm lên trên, cho nên cỏ “đét” ở trên mà dương lại hóa ở dưới. Dân mắc bệnh “trung nhiệt” là vì cái khí quân hòa, bị khí hàn nó làm “uất” lại ở bên trong mà sinh ra.
(77) Tam chi khí là phong khí của Tư thiên chủ lệnh, nên “thiên chính bố tán”. Dân mắc bệnh “tai ù V.V.”, là do phong bệnh phát sinh ờ bộ phận trên.
(78) Tứ chi khách khí là Thiếu âm quân hòa; chù khí là Thái âm thấp thổ, vì vậy nên khí nhục thử với thấp nhiệt cùng xen nhau. “Giao tranh ờ bên phía trên bên tả v.v.” là nói về Thiếu âm ở bên tả Tư thiên Quyết âm.
Án: Cái gián khí Tư thiên của Quyết âm, bắt đầu từ Dương minh ở dưới, mà giao lên Thái dương; cái gián khí Tại toàn cùa Thiếu dương, bắt đầu từ Thiếu âm ờ trên, mà giao với Thái âm… Cho nên nói: “Dân mắc bệnh hàn ở phía bên hữu v.v.” Tức là nói do dưới mà lên trên; nói: “Giao tranh ở phía trên bên tà v.v.” Tức là do trên mà xuống dưới.
(79) Ngũ chi khách khí là Thái âm thấp thổ, chù khí là Dương minh táo Kim, vì vậy nên hai khí táo và thấp thay nhau để “thắng”.
(80) Chung chi chù khí là Thái dương hàn thủy, mà tướng hỏa gia lâm ở trên, cho nên “úy hỏa tư lệnh”; khách thắng chủ, nên Dương khí đại hóa v.v. Cải khí Thiếu dương Tại toàn rất phát triển, loài cây cỏ cảm cái khí sinh trường mà này nở; loài người cảm cái khí ấm áp mà dễ chịu… về bệnh, mắc bệnh ôn lệ, tức sau gọi là Đông ôn.
(81) “Hóa nguyên” tức là năm vận. Vì năm vận chính là nguồn sinh hóa cùa sáu khí. Như về vận Thiếu cung, Quyết âm Tư thiên, thì Thổ khí sẽ bị uất. về vận Thiểu dương, Thiếu dương Tại toàn, thì Kim khí sẽ bị uất. Cho nên phài chiết bỏ bớt cái khí gây nên uất, để giúp cho hóa nguyên của năm vận. Trở lên, sáu khí tương đồng, tuế vận đều bất cập, cho nên phải nâng đỡ cái vận khí, khiển cái tà “sờ bất thắng” sẽ thắng được. Trờ lên tam khí bất cập đều tương đồng.
(82) Tân theo Kim hóa, để điều hòa cái thắng cùa phong mộc, hàm theo thủy hóa, để điều hòa cái râm cùa hỏa nhiệt. Quyết âm không theo tiêu bản, theo cái “hỏa hóa” cùa Thiếu dương “trung kiến”. Thế là trong suốt một năm, đều hòa tư lệnh. Cho nên cần phải sợ cái khí cùa Hỏa, đừng phạm càn vào nó.
(83) Đây nói về cái khí Tư thiên, Tại toàn, sáu năm hoàn chuyển, đều có định vị. “Đi có thứ tự” như: Bên hữu Thiếu dương, Dương minh chủ trị; bên hữu Dương minh, Thái dương chù trị, v.v. Sáu khí chọn một năm, mà sáu năm lại cùng hoàn chuyển. “Ngừng có định vị” là: trên dưới có Vị, tà hữu có kỳ. Mỗi khí đều chù sáu mươi ngày có lẻ “Lấy tháng giêng v.v.” là nói về lấy Dần làm đầu năm, sóc làm đầu tháng, Dần lại là ngày đầu, để bắt đầu tính về “sơ khí”. Đã biết được cái định vị cùa Tư thiên, Tại toàn tức là đã biết được sáu khí ờ đâu rồi.
(84) “Vận” tức là hóa vận cùa sáu khí, như những năm Tí, Ngọ, Dần, Thân, Thìn, Tuất v.v. Sáu khí chù về hữu dư; cái khí chủ tuế chủ thời, đều trước thiên thời mà đến. “Chính tuế” là nói về cái “kỷ cùa tuế hội”, không thái quá, bất cập, khí ứng đúng với mùa”.
(85) “Không phải khí hóa v.v.” Tức là không phải sự hóa do vận khí. Tỳ như năm Đinh Mão, Đinh Dậu, vận của nó là phong, thanh, nhiệt. Phong là khí hóa cùa Thiếu giác; còn thanh nhiệt là cái khí tiềm phục. Như thế, là không phải khí hóa mà là tai sành.
(86) “Số cùa trời đất v.v.” chữ “giờ” ở đây là nói về Tư thiên; chữ “đất” ở đây là nói về Tại toàn. “Sổ bát đầu khởi từ trên” là nói: số bắt đầu từ số “một” và khởi từ “thiên nhất”. “Chung ờ dưới” là nól về: thiên số bắt đầu từ “một”, mà cuối cùng ờ “địa lục”. “Nửa năm về trước, nửa năm về sau v.v.” là nói về cái khí cùa trời đất, trên dưới đều có định vị. “Khí giao” là nói về cái khí của trời đất trên dưới cùng giao với nhau. “Vị” tức là cái vị Tư thiên, Tại toàn và tả hữu gián khí; “khí, nguyệt” là nói về mỗi khí đều làm chù trong một thời gian là hai tháng.
(87) Đây nói về năm vận, sáu khí, có cái sự thịnh suy, đồng hóa, nên có sự bất hợp, “không hợp với số”, tức là không hợp với cái số cùa sáu khí. “Khí dụng có nhiều ít v.v.” là nói về cái công dụng cùa sáu khí có hữu dư và bất túc. “Hóa trị có thịnh suy v.v.” là nói về cái hóa cùa năm vận có thái quá và bẩt cập. “Phong ôn v.v.” là nói về Quyết âm với gia vận đồng hóa. “Thắng với phục v.v.” là nói về thắng khí với phục khí, cùng với sáu khí tương đồng. Tỷ như thanh Kim thẳng Giác Mộc, cái “thắng khí” lại tức đồng với Dương minh; Viêm hỏa phục thu Kim, cái “phục khí” lại tức là đồng với Thiếu âm, Thiếu dương. Đó là sự biến hóa thay đổi do năm vận, sáu khí cùa trời đất, và cái lẽ thường thịnh suy, nên có khi không hợp. Như khí xuân ôn nhiều, hợp với sự thịnh cùa xuân hóa, thế là khí với vận đồng sự hóa; như sự ít của sáu khí, hợp với sự thịnh cùa năm vận; sự suy của năm vận, hợp với sự nhiều cùa sáu khí. Thế là sự thịnh suy thay đổi có khi không họp.
(88) Đây nói thái mà quá đồng địa hóa thời với thiên phù tương đồng; bất cập mà đồng địa hỏa thời với tuế hội tương đồng. Ờ dưới mà đè lên trên gọi là “gia”; ở trên mà trông xuống dưới gọi là lâm.
(89) Nói về: Trong 12 năm thái quá và bất cập đều gọi là Thiên phù. Nhung tựu trung có biến thành nhiều ít khác nhau. Nhiều, ít tức là sự biến của thái quá và bất cập. Thái quá thì chóng (bạo), bất cập thì chậm (từ). Chóng thì bệnh nặng, chậm thì bệnh nhẹ.
(90) Đẩy nói tổng quát trong một năm, có sáu vị ứng (đúng) thời mà khởi. Mỗi vị đều làm chú 60 ngày linh 87 khắc rưỡi; đều có đù bốn khí hàn, nhiệt, ôn, lương. Đều nên xa lánh mà đìmg phạm. Như “sơ chi khí” thiên khí còn hàn, lẽ nên dùng nhiệt; nhưng “thời” đó gặp Thiếu dương tướng hỏa tư lệnh, lại nên xa lánh một vị đó mà đùng phạm. Như “nhị chi khí” thiên khí đã ôn, lẽ nên dùng lương; nhưng “thời” đó gặp Thái dương hàn thủy tư lệnh, lại nên xa lánh một vị đó mà đừng phạm. Phàm sáu khí trong một năm đều như vậy.
(91) Đây chưa nói về Tư thiên, Tại toàn, với gián khí đều không nên phạm. Như Thiếu âm ờ trên, tư khí là nhiệt (chữ tư (ty) là coi, chù trương), mà muốn dùng nhiệt, thì lại nên xa lánh cái nhiệt cùa Thiếu âm đó mà đừng phạm. Lại như: Dương minh Tại toàn, tư khí là lương, mà muốn dùng lương, thì lại nên xa lánh cái lương của Dương minh đó mà đừng phạm. Các khí khác đều theo một nguyên tẳc như vậy. Lại như gián khí với cái chủ khí cùa Tư thiên, Tại toàn tương đồng, thì không thể phạm; với chủ khí “dị” thì có thể tiểu phạm. Giả như: Thiếu dương Tư thiên, sơ khí là Thiếu âm quân hòa, thế là với cái khí Tư thiên tương đồng, thì đừng phạm cái nhiệt cùa nó. Lại như Thiếu âm Tại toàn, mà “tư chi khí” là Thái dương hàn thùv, thổ là với chù khí tương dị, có thể dùng một ít nhiệt mà tiểu phạm vào nó. Vậy dó là hàn, nhiệt, ôn lương “tứ úy”, phải xét cẩn thận.
(92) “Thiên khí trái thời”, như tư khí là nhiệt, mà thiên khí lại lương, thế thì ncn theo thời mà dùng ôn; như tư khí là nhiệt, mà khí hàn lại thắng, thế thì lại có thổ dùng nhiệt, mà phạm cái nhiệt của chù khí. Nhưng chi lấy khí bình quân làm giới hạn, mà không thể quá dụng, làm thương đến nguyên chân cùa tư khí. “Thiên tín” tức là sự “tin đúng” của thiên khí, mình đừng có nhầm lẫn mà phạm đến nó; “khí nghi” tức là sáu khí đều có cái “sở nghi” cùa nó, ta không nên.
(93) làm trái nỏ. Nếu có thắng khí, thì nên chiết bớt nó đi, đừng đỡ thêm nó lên (như tục ngữ: Nổi giáo cho giặc), đến như phục khí (cái khí báo phục, khác với chữ phục là tiềm phục), lại nên nén xuống, đừng giúp thêm lên. Chí trị, cũng như thịnh trị, tức là an toàn.
(94) Chương này với chương trên, đại nghĩa hơi giống nhau. Chương trên lấy Thái dương bất đầu, để chia thứ tự sáu khí cùa Tam âm, Tam dương, lấy giác vận làm “sơ”, rồi chia Giác, Chùy, Cung, Thương, Vũ là năm âm, nên niên tuế có chồ không đều nhau. Nên ở đây, lấy thiên Can bắt đầu từ Giáp, địa chi bắt đầu từ Tý, từ Giáp Tý đển Quý Ty, 30 năm làm một kỳ; lại từ Giáp Ngọ đến Quý Hợi, 60 năm làm một chu. Như thế thỉ tuế vận mới thuận.
(95) Thiên theo số “nhất” sinh ra Thủy, địa theo số “lục” để hợp thành; địa theo sổ “nhị” sinh ra Hòa, thiên theo số “thất” để hợp thành; thiên theo số “tam” để sinh ra Mộc, địa theo số “bát” để hợp thành; địa theo số “tứ” để sinh ra Kim, thiên theo số “cửu” để hợp thành; thiên theo số “ngũ” để sinh ra Thồ, địa theo số “thấp” để hợp thành. Thiên Can bẩt đầu từ Giáp, địa chi bắt đầu từ Tý. Cho nên về “số” bắt đầu từ cái “sinh” ra.
(96) Hóa vận ờ vào giữa. Thái quá thì theo về số “thành”, bất cập thì theo số về “sinh”. Võ do Thổ hóa; Thổ thường là “sinh”, nên về số là “năm”.
(97) Thuộc về những năm Kỷ Mão, Kỳ Dậu, “Kỳ” chù bất cập, nên số chù về “sinh”.
(98) Không có một sự tà hóa cùa thắng phục, nên gọi là chính hóa. “Ngày”, vì mỗi vận tóm chù một ngày, mà năm vận lại lấy giác vận-làm “sơ”; vũ, võ là cuối, đều chù 72 ngày có lẻ.
(99) Đây nói về những thực vị, dược phẩm do Tư thiên nên dùng. Bởi về năm thái quá Thổ thắng Thủy, cho nên dùng vị hàn để giúp Thủy.
(100) Đây nói về những thực vị dược phẩm, trong thời kỳ Thổ vận nên dùng.
(101) Đây nói về những thực vị dược phẩm, trong thời kỳ Tại toàn nên dùng.
(102) »yrên’i cỊ-ịj v| Tự thiên, “dưới” chi về Tại toàn, “giữa” chi về hóa vận. Vì quân hỏa Tư thiên, cho nên phải dùng hàm hàn để chế hóa; Thái âm thấp thổ vận hóa ờ giữa, cho nên, nên dùng khổ để táo thấp, dùng nhiệt để ôn âm; Dương minh thanh lương Tại toàn, cho nên dùng vị toan để giúp sự thâu, dùng vị nhiệt để ôn bệnh lương. Đó là sự thích nghi cùa thức ăn và thuốc uống. Dưới đây cũng theo một nghĩa như vậy.
(103) về vận bất cập, có thắng, phục. Kim vận bất cập thì hỏa nhiệt thắng được. Con cùa Kim là hàn Thủy lại để phục. Có cái tà khí thắng và phục, cho nên gọi là “tà hóa”. Còn về “nhật”, là nói cái thắng khí thắng cái 72 ngày cùa nó sờ chù; mà cái phục khí thì phục 72 ngày nó sờ tư.
(104) Ất chủ bất cập nên số theo về “sinh”. Án: Ất vận bất cập, thì Tư thiên, Tại toàn của những năm Sửu, Vị cũng chủ về bất cập, tức là khí và vận giống nhau.
(105) “sjnh” Các năm bất cập (jềư khác nhau theo một nguyên tắc nhử vậy.
(106) Tức năm Canh Thìn, Canh Tuất chủ về thái quá, nên số theo về “thành”.
(107) ybấp hóa “ngữ”, thanh “tứ”, hàn hóa “lục, đều chù về chính hóa, không có tà khí thắng và phục, khí cùa năm vận, lại đều chia chù 72 ngày, cái khí cùa Tư thiên, Tại toàn đều chù 60 ngày có lẻ.
(108) 0£y nbi vg nhũng thực vị, dược phẩm do Tư thiên nên dùng.
(109) Đây nói về những thực vị, dược phẩm Kim vận nên dùng.
(110) Đây nói về những thực vị, dược phẩm Tại toàn nên dùng.
(111) Kim khí chủ thâu, vậy nên dùng vị toan để thâu lại. “Hóa”, là nói về cái khí của năm vận, dẫu đều chù một năm, mà trong mỗi năm, lại có riêng năm vận sinh, trường, hóa, thâu, Tàng. Lại nên dùng năm Vị để điều hòa. Cam là vị cùa Thổ, có thể chế được hàn thủy.
(112) Hỏa lâm ờ trên, thủy theo chế lại, cho nên chù về bất cập.
(113) Vận thái quá, cho nên số theo về “thành”. Các năm Thái quá đều theo một nguyên tắc như vậy.
(114) Tức là những năm Tân Tỵ, Tân Hợi. Tỵ, Hợi chù về bất cập, nên số theo về “sinh”.
(115) Không phải thắng, không phải phục, tức là cái ngày sở hóa cùa chính khí.
(116) Đây nói về những thực vị, dược phẩm, Tư thiên nên dùng.
(117) Đây nói về những thực vị, dược phẩm, thủy vận nên dùng.
(118) Đây nói về những thực vị, dược phẩm, Tại toàn nên dùng.
(119) Thủy vận chủ về hàm, mà lấy vị hàm để giúp thêm. Cái hóa vận sau đây, phần nhiều dùng nhũng Vị để hòa, giúp. Tức là theo nguyên tắc “chiết bớt uất khí, giúp thêm hóa nguyên” vậy.
(120) về năm ủy hòa, Thượng thương với chính thương tương đồng, cho nên chù về số “thành”. Bởi Mộc vận bất cập, Kim khí thắng được, giờ lại táo hỏa lâm ở trên, thì Klm khí lại càng thịnh.
(121) Đâv nói về Mộc vận bất cập, nên chủ về số “sinh”.
(122) Đây tức là những năm Nhâm Tý, Nhâm Ngọ. Tý, Ngọ chù về thái quá, nên số theo về “thành”.
(123) Đây tức là cái ngày sờ hóa cùa chính khí.
(124) Đây tức là những thực vị, dược phẩm do Tư thiên nên dùng.
(125) Đây tức là những thực vị, dược phẩm, những năm Mộc vận nên dùng.
(126) Đây tức là những thực vị, dược phẩm do Tại toàn nên dùng.
(127) Thìn, Tuất chù về thái quá, nên số theo về “thành”.
(128) Đây nói về Hòa vận, Mậu Thìn đối hóa theo số (7), Mậu Tuất chính hóa theo số (2).
(129) Tức là những năm Quý Sửu, Quý Vj (Mùi). Sửu và Vị chủ về bất cập, cho nên theo về số “sinh”.
(130) Tức là những ngày hóa cùa chính khí.
(131) Nhân thắng mà phục. Cái ngày tà khí sở hóa.
(132) vê bất cập, nên theo về số “sinh”.
(133) Đây nói là Thổ vận.
(134) Tức là những năm Mậu Dần, Mậu Thân, đều chù về thái quá nên theo về sổ “thành”.
(135) Ngọ về thái quá, cho nên theo về số “thành”.
(136) Kim vận thái quá. Kim vận về năm Canh Ngọ, cũng theo sổ về số “sinh” của chính hóa, chù thanh hóa “tứ”; năm Canh Tý cũng theo đối hóa thành số, chù về thanh hóa “cửu”.
(137) Tức là những năm Át Mão, Ất Dậu.
(138) Nhân thắng mà phục, đó là cái ngày tà khí sở hóa.
(139) Sửu, Vị (Mùi) chù về bất cập, nên theo về số “sinh”.
(140)ở hóa vận chù về bất cập, nên theo về số “sinh”.
ở Tại toàn, thuộc về những năm Bính Thìn, Bính Tuất. Thìn, Tuất thuộc về thúy cùa Thái dương, hợp với hóa vận cùa Bính mới sinh, nên theo số “một”.
(141) Những năm Nhâm Thân, Nhâm Dần là đồng Thiên phù, cho nên theo về “sinh” số.
(142) Ờ trung vận, chù giác hỏa thái quá, cho nên số theo về “thành”; ờ Tại toàn, tức là những năm Đinh Ty, Đinh Hợi.
(143) Thìn, Tuất chủ về thái quá, nên theo về số “thành”.
Án: Thổ thắng, mà không thắng Thủy, đó là năm thuộc về tuế hội, tức là khí bình. Nên không có tháng và phục.
(144) Sửu, Vị (Mùi) chủ về bất cập, nên số theo về “sinh”.
(145) về năm Tùng cách, Thượng giác với chính giác đồng, nên số chù về “thành”. Bởi Kim vận bất cập, sinh khí thuộc dương, mà lại trên lâm với Tư thiên, thì khí sẽ rất thịnh.
(146) Đây nói về Kim vận, Ảt Hợi, thanh hóa, bốn; Át Tỵ, thanh hóa, chín.
(147) Tức là Canh Dần, Canh Thân.
Án: Ờ đây, nên chù về số “thành”, có lẽ sách cổ bị khuyết.
(148) Hòa tư ở trên, Thủy theo chế lại, cho nên chù bất cập.
(149) Đây nói về Thủy vận thái quá, nên theo về số “thành”.
(150) lả nhũng năm Tân Mão, Tân Dậu. Mão, Dậu chù về bất cập, nên số theo về “sinh”.
(151) Thanh thì thắng mà nhiệt thì phục.
(152) Sửu, Vị (Mùi) chù bất cập, nên theo sổ “sinh”.
(153) Đây là Mộc vận bất cập.
(154) Tức là những năm Nhâm Thìn và Nhâm Tuất. Cái thùy cùa Thìn, Tuất hợp với hành thủy mà mới sinh, cho nên theo số “một” (nhất).
Án: Cái Thủy do “thiên nhất” sinh ra, gọi là “thiên quý”. Nhưng cái Thủy cùa Thái dương, chỉ hợp với hóa khí cùa Bính, mà không hợp với Tân, Quý Bời Tân với Bính đã hợp, và Nhâm với Quý đã hợp rồi. Nghê Trọng Tuyên nói: Hàn thủy Tại toàn, Thổ chế ờ trên, cho nên chù bất cập.
(155) Dần, Thân, Thái chùy. Đều chù về Hỏa vận thái quá, nên theo số “thành”. Án: Đây nói về Tư thiên và nói rõ về Thiên phù. Tư thiên với vận hợp, cho ncn chi nói “Hỏa hóa thất”, vì đó tức là vận khí cùa Thái chùy.
Nêu là cái khí cùa Thiếu dương Tư thiên, thì Mậu Dần hỏa hóa hai, Mậu Thân hỏa hóa bảy.
(156) Tức ià những năm Quý Tỵ, Quý Hợi. Tỵ, Hợi chù về bất cập, nên theo về sổ “sinh”.
(157) Mộc thi thắng mà Kim thì phục.
(158) Kim bất cập mà Thổ vận sinh ra. Cho nên khí thịnh.
(159) Đây nói về Thổ vận. Tức là những năm Giáp Tý, Giáp Ngọ. Tý, Ngọ chù về thái quá, nên theo số “thành”.
(160) Thùy ngn chủ bất cập.
(161) Kim vận thái quá nên theo số “thành”.
11621 Tức là những năm Ẩt Sửu, Át Vị (Mùi). Sửu, Vị chù về bất cập, nên theo về số “sinh”.
(163) hất cập, nên theo về số “sinh”.
(164) ‘Phùy vận bất cập, nên cũng theo về sổ “sinh”.
(165) Tức là những năm Bính Dần, Bính Thân. Dần và Thân chù về thái quá, cho nên thuộc về số “thành”.
(166) Bị Nhâm thủy nó chế, cho nên chù bất cập.
(167) Ỵhùy vận thái quá, nên theo về số “thành”.
(165) Tức là những năm Đinh Mão, Đinh Dậu. Mão, Dậu chủ bất cập, nên theo về số “sinh”.
(169) Sửu, Vị (Mùi) chù bất cập, nên theo về số “sinh”.
(170) Hòa vận bất cập, nên cũng theo về số “sinh”.
(171) Tức là những năm Mậu Thìn, Mậu Tuất. Thủy bị Thổ chế, nên chù
về bất cập.
(172) Dần, Thân chủ thái quá, nên theo về số “thành”.
Đây nhầm, nghi có khuyết văn.
(173) Đây là Thổ vận, nên theo về số “sinh”.
(174) Tức là những năm Kỷ Tỵ, Kỳ Hợi. Thượng giác với chính giác đồng, nên chù về số “thành”.
(175) Mão, Dậu chù về bất cập, nên theo về số “sinh”.
(176) Kim vận bất cập, nên theo về số “sinh”.
(177) Tức là những năm Canh Tý, Canh Ngọ. Đồng với Thiên phù nên theo về số “sinh”.(178) Thái vũ chù thái quá, cho nên theo số “thành”. Đây là vận với Tư thiên đều là thủy vận, cho nên chi nói “hàn hóa lục”, Hàn hóa lục là vận hóa cùa Thái vũ. Neu là hóa cùa Thái dưcmg Tư thiên thì Bính Tuất hàn hóa nhất, Bính Thìn hàn hóa lục.
(179) Những năm Tàn Sửu, Tân VỊ (Mùi). Sửu, Vị chủ bất cập, cho nên theo số “sinh”.
(180) Kỳ Hợi, Thiếu giác đều chù về Mộc vận bất cập, cho nên theo về số “sinh”.
(181) Tức là những năm Nhâm Dần, Nhâm Thân. Dần, Thân chù về thái quá, cho nên theo về số “thành”.
(182) Tý, Ngọ, Thái chùy, đều chù về thái quá, cho nên theo về số “thành”.
(183) Những năm Quý Mão, Quý Dậu. về kỳ phục minh, thượng thương với chính thương đồng, cho nên chù về số “thành”. Bởi trưởng khí không tuyên đạt ra được, thâu khí tự giữ chính quyền, mà lại với Mão Dậu cùng hợp, Kim khí sẽ thịnh, nên theo số “chín”.
(184) Sửu, Vị, Thiếu cung đều chủ bất cập, nên theo về số “sinh”.
(185) Giáp Thìn, Giáp Tuất, Thổ thịnh thì Thủy suy, nên chủ bất cập.
(186) Dần, Thân chù thái quá, cho nên theo số “thành”.
(187) Kim vận thái quá, nên cũng theo số “thành”.
(188) năm Ật Ắt Hợi. Tỵ, Hợi chủ bất cập, nên theo số “sinh”.
(189) Hóa cùa khí thanh lương, Thiếu vũ với Thiếu thương đồng. Cho nên theo sổ “thành”. Bời Tàng lệnh không phát triển, hóa khí sẽ thịnh. Thổ thịnh, thì Kim sinh, do đó Kim khí sẽ thịnh.
(190) phùy vận bất cập, nên theo số “sinh”.
(191) Tức là những năm Bính Tỵ, Bính Ngọ. Tỵ, Ngọ chù về thái quá, cho nên theo số “thành”.
(192) Thìn, Tuất chù về thái quá, nên theo số “thành”.
(193) Mộc vận thái quá, nên cũng theo số “thành”.
(194) Tức là nhũng năm Đinh Sửu, Đinh Vị (Mùi). Sửu, Vị chù bất cập, nên theo số “sinh”.
(193) Thiên Can cuối cùng ở Quý, địa chi cuối cùng ở Hợi, cho nên theo số “thành”.
(194) Ở hóa vận chù thiếu chùy, cho nên theo số “hai”.
Ờ Tại toàn là Mậu Dần, Mậu Thân, Tuế chủ Thiên phù, nên theo số “sinh”.
(197) Những “kỷ” định kỳ, tức những thiên Can bắt đầu từ Giáp, địa chi bẳt dầu từ Tý. Tý với Giáp cùng hợp, 30 năm là một “kỷ”; 60 năm là một “chu”. Thắng với phục là nhiíTig năm bất cập; chính với hóa là những năm “kỷ” thái quá. Đều có cái số kinh thường không thể thay đổi. “Cốt yếu” tức là sự thịnh suy của âm, dưcmg.
(198) Đây bàn hóa của năm vận, bị cái “thắng, chế” cùa Tư thiên và Tại toàn. Uất cực thì phát, để báo phục lại tuế khí, cho nên nól “chiết bỏ uất khí, giúp cho hóa nguyên”. Đó là do tuế khí nỏ thắng chế được hóa vận, cần phải lấy cái vị sở thẳng để chiết bớt nó xuống, mà đừng để cho nó uất mà báo phục nữa. Như những năm Đinh Mão, Đinh Dậu, Thái thưomg Mộc vận mà thượng lâm Dương minh, thì Mộc khí sẽ bị uất. Những năm Mậu Thin, Mậu Tuất, Thái chùy hỏa vận mà thượng lâm Thái dương (hàn thủy), thì Hỏa khí sẽ bị uất. Những năm Kỷ Tỵ, Kỷ Hợi, Thiếu cung Thổ vận, mà trên lâm Quyết âm, thì Thổ khí sê bị uất. Những năm Canh Tý, Canh Ngọ, Thái dương Kim vận, mà trên lâm Thiếu âm thì Kim khí sẽ bị uất. Những năm Tân Sửu, Tân Vị, Thiểu vũ thủy vận mà trên lâm Thái âm, thì Thủy khí sẽ bị uất. Những năm Canh Dần, Canh Thân, Thái dương Kim vận, mà tướng hòa Tư thiên thì Kim khí sẽ bị uất. Lại như những năm Ắt Ty, Ẩt Hợi, Thiếu dương Kim vận mà tướng hỏa Tại toàn, thì Kim khí sẽ bị uất; những năm Nhâm Tý, Nhâm Ngọ, Thái giác Mộc vận mà Dương minh Tại toàn, thi Mộc khí sẽ bị uất; những năm Quý Sửu, Quý VỊ, Thiếu thủy hỏa vận mà Thái dương Tại toàn, thì Hỏa khí sẽ bị uất; những năm Giáp Dần, Giáp Thân, Thái cung Thổ vận mà Quyết âm Tại toàn, thì Thổ khí sẽ bị uất; những năm At Mão, Ất Dậu, Thiếu dương Kim vận mà quân hỏa Tại toàn thì Kim khí sẽ bị uất; nhữnạ năm Bính Thìn, Bính Tuất, Thái vũ thủy vận mà Thái âm Tại toàn thì Kim khí sẽ bị uất. Phàm trong mười hai vận đó, có thái, có thiếu, đều bị cái. uất của Tư thiên và Tại toàn mà báo phục. Cho nên nói: “Thái quá thì bạo, bất cập thì từ”.
(199) Cái vận của năm thái quá bị uất, nó phát ra bạo; cái vận cùa năm bất cập bị uất, nó phát ra từ. sự khác nhau ở đó.
(200) “sộ sjnh” thì “vi” (nhò, bé), cho nên chù về bất cập; cái khí “dĩ thành” (đã thành, nên) thịnh, cho nên chủ thái quá. Thiên theo số “nhất” sinh ra hành Thủy, địa theo số “lục” để hợp thành lại; dịa theo số “nhị” sinh ra hành Hỏa, thicn theo số “thất” để hợp thành lại; thiên theo sổ “tam” để sinh ra hành Mộc, địa theo số “bát” dể hợp thành lại, địa theo số “tứ” để sinh ra hành Kim, thiên theo số “cửu” để hợp thành lại; thiên theo số “ngũ” để sinh ra hành Thổ, địa theo số “thập ” để hợp thành lại. Cái khí của năm hành, cảm về “thiên sinh, địa thành” và “địa sinh, thiên thành”. Những điềm có thể nhận biết rành mạch. “Thổ thường là số sinh”, vi vị trí cùa Thồ ở trung ương, cảm thiên Can mà mới hóa… Mà khí cùa trời đất đều gốc ờ “năm” mà cuối ở “chín”. Đó tức là cái số của Lạc thư. Cho nên nói: ờ khoáng trời đất, không tránh khỏi số “ngũ” (thiên số ngũ, địa sổ ngũ), mà người cũng ứng theo đó.
Vương Long Khê nói: Năm hành có “khí” lại có “chất” đều phải nhờ ờ Thổ. Như “thiên nhất sinh Thủy”, đó là cái khí của Thủy, “nhất” được “ngũ” mà thành “lục”, bấy giờ cái “chất” cùa Thủy mới thành.
Nghệ Trọng Tuyên nói: Thổ vị trí ở trung ương, số là “ngũ” họp với cái “sinh số” cùa trời “ngũ” được “ngũ” mà thành “thập”. Vậy cái số cùa trời
đất chẳng qua chỉ ờ trong “Ngũ”(201).
(202) Đây nói về sự phát tiết do Thổ uất, có những biển tượng hiện ra ở trong khoảng trời đất núi sông; có những triệu chứng phát sinh ra khắp cây cò côn trùng; lại cỏ những tai sảnh sinh ra ở con người, có những sự thay đổi của khí hàn nhiệt. Chi xem cái lúc “phát” mà đã có thể biết được cái sự phục” cùa nó ra làm sao. sấm, là khí cùa Hỏa; “tam chi khí” chù về Hỏa, “tứ chi khí” chù về Thổ. Cho nên sâm vang phát ra ờ bên dưới Thổ. Hỏa với Thổ hợp đức, mà phát ra ở trong khoảng tam khí, tứ khí hỗ giao với nhau. “Khí trắng” tức là Kim khí; tức là Thồ được thư xướng mà Kim hóa ra vậy. Các chứng hậu “Tâm, phúc trướng v.v.” đều do cảm Thổ khí mà sinh ra.
Án: Ở đây nói về “năm sự uất phát ra” cùng với thiên khí giao, nói về “uất phục” không giống. Ở cuối thiên khí giao, cũng tựa với chương trên nói: “Thanh, nhiệt thắng và phục đồng”. Vận của nó là phong, thanh và nhiệt. Bời nhân cái vận chủ tuế, không kịp cái khí “sờ thắng”, nó thắng rồi, mà “tử khí” lại vì mẫu (mẹ) phục thù. Đó là điểm “tự tương thắng và phục” cùa vận khí. Ờ chương này nói vè “phục tuế”, tức như ở đoạn trcn nói: “Chiết bò khí uất, giúp cho hóa nguyên”. Bởi khí cùa năm vận ờ vào khoảng giữa, trên bị cái thẳng cùa Tư thiên, dưới bị cái chế cùa Tại toàn, không chia gì thái quá và bất cập, đều phải bị cái “uất mà lại phát”. Cho nên phàm những cái phát ra, tức là cái bản khí “sờ uất”, chứ không phải là “con vì mẹ báo phục”. Vì vậy “phục khí” với “dân bệnh” đều có điểm không giống nhau. Học giả phải phân biệt cho rõ mới được.
(203) “Sáng sủa”, là cái lệnh cùa Kim; “gió mát, khí lạnh” là cái khí của Kim. Đó là do cái Kim khí bị uất mà lại phá, chính lệnh lại phát triển thi hành. Khái nghịch v.v. Đều là bệnh của Phế. về “khí ngũ v.v.” là nói: Phát ra bởi “ngũ chi khí”.
Đoạn trên đây nói về mọi hiện tượng phát ra do Kim uất, có khí hóa, có dân bệnh, có thời hậu, có tiên triệu. về những năm Át, Canh hoặc thái quá mà không chăm ờ đức; hoặc thuộc năm bất cập, mà Hỏa thẳng, Thủy thẳng v.v. thì sẽ uất. Mà uất thì sẽ phát ra các hiện tượng, chứng trạng, biến huyễn như trên.
(204) Yêu chùy thuộc về Phù của Thận; quan tiết v.v. Do bệnh ở cân, “quyết nghịch v.v. Do Dương khí Tàng xuống dưới, khiến cho “trung hàn” mà gây nên. “Hai hỏa”, tức là quân hỏa chù “nhị chi khí” và tướng hỏa chù “tam chi khí”. Khí đó phát ra ờ trước sau hai vị quân hòa và tướng hỏa.
(205) Các chứng vị quản thống v.v. Bởi Mộc thắng, Thổ bị thương mà sinh ra”Đau ngang hai hiếp v.v.” là những bệnh phong khí gây nên.
(206) kị nận vừng ô cũng bị ẩn khuất. Các chứng thương, dương, ung, thũng v.v đều do hòa nhiệt thịnh, tinh huyết bị thương mà gây nên “thiểu khí”, tức là Hỏa làm hại khí. “Mâu muộn” là bệnh ở Phế khí. Hòa thịnh, tinh bị thương, nên hay bạo tử. “Khí cuối” là nói về: mỗi khí chia chù 60 ngày, linh 87 khắc rưỡi. Như về cuối “tam khí”, mà đại ôn, sắp phát với “tứ chi khí”. “Động cực thì tĩnh, dương cực lại âm v.v.” tức là nói về: Thiếu âm đến đâu là nhiệt bắt đầu sinh mà cuối là hàn. Bởi Thiếu âm theo “bản” theo “tiêu”. “Thấp lệnh mới hóa mới thành” v.v. Đó là bởi Thiếu dương đến đâu là Hỏa bắt đầu sinh, mà cuối cùng là oi bức.
(207) “Dương cực lại âm, núi sông băng tuyết v.v. Đó là nói về uất cực. Phong khí lưu hành suốt bổn mùa, nên Mộc phát không có thời kỳ nhất định. Thủy phát ra ở trước và sau hai hỏa quân, tướng, cho nên trên đây nói: “Thủy theo Hỏa”.
(208) bệnh có thể dự biết, cũng có thể dự để điều trị. “Lỡ thời”, tức là bỏ lỡ cái thời “sờ chủ” cùa ngũ âm, lục khí; “Trái với tuế v.v.” tức là trái với tuế khí Tư thiên và Tại toàn.
(209) Đây nói về cái uất cùa năm vận, bị sự thắng chế cùa sáu khí.
Án: Lục vi chi đại luận nói: Bên hữu Hiển minh là Vị của quân hỏa; bên hữu quân hỏa, lui đi một bộ, tướng hỏa chù trị; lại đi một bộ, Thổ khí chù trị; lại đi một bộ, Kim khí chủ trị; lại đi một bộ, Thủy khí chủ trị; lại đi một bộ, Mộc khí chủ trị; lại đi một bộ, quân hỏa chủ trị; phía dưới tướng hỏa, Thủy khí chù trị; phía dưới Thủy vị, Thổ khí “thừa” theo; phía dưới Thổ vị, phong khí thừa theo; phía dưới phong vị, Kim khí thừa theo; phía dưới Kim vị, Thủy khí thừa theo; phía dưới quân hòa, âm tinh thừa theo. Đó là sáu khí đều có định vị, đều có “thừa, ché” ờ phía dưới. Cho nên nói: “Xét cả ờ phía dưới, mà có thể biết…” tức là xét về sự “thừa chế” của sáu khí ở dưới, thì sẽ thấy: “thủy phát là bộc tuyết, thổ phát là phiêu sậu v.v. đều có thể biết được. “Khí có nhiều ít v.v.” là nói về cái khí của năm vận có thái quá và bất cập. “Đúng với khí v.v.” tức là đúng cái thời kỳ của bản khí mà tự phát; “kiêm cả dưới v.v.” tức như: đương “thủv phát” mà lại kiêm cả “phiêu sậu” của Thủy; “Thổ, phát” mà lại kiêm cả “bộc tuyết cùa Thủy”; “Mộc phát” mà lại kiêm cà “thanh minh” cùa Kim; “Kim phát” mà lại kiêm cà “huân, muội” cùa Hỏa v.v. Ở đây, phân biệt về sự “phục” là do sự uất cùa sáu khí, chứ không phải là trường hợp tư tương thắng và phục cùa năm vận.
(210)tức là cái thòi “S0 chủ” cùa năm vận. Nói về năm vận phát ra, không đúng với “Vị” mà phát, đó là vì cái chính lệnh lưu hành không được đúng. Như thủy vị về mùa đông, mà lúc phát lại ờ trước hai “Hỏa” là tháng giêng, tháng hai; Thổ vị về mùa Trường hạ, mà lúc phát ra lại ở vào thời kỳ “tứ khí” là tháng bày, tháng tám; Kim vị về mùa thu mà lúc phát ra lại ờ vào thời kỳ “ngũ khí” là tháng chín, tháng mười; Hỏa vị ờ về mùa hạ, mà lúc phát ra lại ở vào thời kỳ “tứ khí” là tháng bảy, tháng tám v.v.đều phát chậm lại: linh 30 ngày. Vì uất cực rồi mới phát, nên mói cách bản vị như vậy.
(211) Đây nói về sáu khí của chù thời, có thái quả bất cập khác nhau. Sáu khí, mỗi khí đều chù linh 60 ngày. Như cái khí thanh túc lưu hành ờ mùa xuân, cái khí viêm nhiệt lưu hành ở mùa thu, cái khí ngưng hàn lưu hành ờ mùa hạ, cái khi chưng nhục lưu hành ở mùa đông. Đó là không phải thời mà hóa. Bởi thái quá, là đúng với thời mà đều “tư” cái khí ôn, lương, hàn, nhiệt; bất cập là về “kỷ thắng” tức là theo về cái khí “thắng kỷ”, và là cái hóa không phải thời. Chương trên, nói về sự chù tuế của năm vận, sáu khí mà có thịnh, suy; đây lại nói về sự chù thời cùa năm vận, sáu khí mà cũng có thái quá bất cập.
(212) Đây nội về khí của bốn mùa có thái quá và bất cập. “Sớm muộn” tức là nói về đến trước, đến sau. Thuận thời như: xuân khí đi về bên Tây, hạ khí đi về bên Bắc, thu khí đi về bên Đông, đông khí đi về bên Nam. Nghịch là phàn thuận làm nghịch. Xuân khí phát sinh ở phương Đông, nên từ phương Đông mà đi về phương Tây; Hạ khí phát sinh ở phương Nam, nên từ phương Nam mà đi về phương Bắc; Thu khí phát sinh từ phương Tây, nên từ phương Tây đi về phương Bấc. Đó là bốn mùa ứng với bốn phương. Cho nên xuân khí từ dưới mà sinh, thu khí từ trên mà xuống; cái khí hạ hỏa từ giữa mà tán bố ra bổn phương; cái khí Đông Tàng, từ Biểu mà trờ về Nội Phù. Bên tả là Đông, bên hữu là Tây, đằng trước là Ly, đằng sau là Khảm. Đó là cái khí bốn mùa có cao, thấp, tả, hữu. từ phía dưới mà lên trên, từ bên trong mà ra ngoài.
(213) Ờ chương trước, nói về “sơ chi khí, nhị chi khí v.v.” chi bàn về khách khí gia lâm, do sáu năm hoàn chuyển đều có Mộc mùa xuân, Hỏa mùa hạ, Kim mùa thu, Thủy mùa đông. Đều chù về linh 72 ngày. Lại có “sơ khí” là Quyết âm, “nhị khí” là Thiểu âm, “tam khí” là Thiếu dương, “tứ khí” là Thái âm, “ngũ khí” là Dương minh, “lục khí” là Thái dương. Đều chủ 60 ngày linh 87 khắc rưỡi. Đó là cái khí bốn mùa không thể thay đổi nó; có cái chính, lệnh, hàn, nhiệt, ôn, lương và sinh, trường, thâu, tàng. Nên gọi là “thương”.
“Khí khi đến v.v.” tức là nói về bốn mùa có cái khí cùa năm vận sau khí dẫn đến. Thiếu âm tuy chủ quân hỏa mà bàn hàn, nên ở vào chỗ giao tiếp của hàn với nhiệt, để chủ về khí ôn hòa. ở tiết này, lấy Quyết âm phong mộc chủ xuân; Thiếu dưong viêm thừ chủ hạ; Dương minh thanh lương chủ thu; Thái dương hàn thủy chù đông. Đó là khí hóa thường cùa bốn mùa. Cho nên lại lấy Thái âm chuyển xếp lên trước Thiếu dương, vì là Thổ khí chia vượng ở tứ quý, nên trước bắt đầu từ xuân, hạ.
(214) “Phiêu nộ” (tung bay, giận dữ) hình dung biến thái cùa phong; “Mát nhiều” tức là Kim khí “thừa” theo; “đại huyên” là ấm nhiều, tức là sức quá độ của Hòa, “hàn” tức là âm tinh “thừa” theo; “sấm sét mưa to v.v.” là trạng thái biến chuyển cùa thấp thổ, đến “cực độ” thì phong khí “thừa” theo. Trờ lên là nói về: “Cực thì biến, biến thì hại, rồi do “thừa” theo “chế lại”.
(215) “Lý cấp” là một chứng khí nghịch nghẽn lên. Quyết âm chù về mùa xuân, xuân khí bắt đầu từ dưới mà dẫn lên trên, nên thành chứng “lý cấp”. Dương minh chù về mùa thu, thu khí bắt đầu từ trên, nên thành chứng phù hư; Hòa sinh ra, ờ Mộc phong, với Hỏa cùng quạt dồn, nên mới thành các chứng lờ láy và mình nóng; Thổ vị trí ờ trung ương mà chia vượng ra tứ quý, cho nên ở bốn mùa gây thành các chứng bí, tích, và trung mãn; Thái dương chủ về cân, bị phong khí nó phạm, cho nên mắc míu mà thành co duỗi không lợi.
(216) Tâm chù về nói; hỷ là Tâm chí. Quân hỏa bị cái hàn thủy cùa Đông lệnh nó bách, thì Tâm khí hóa thực mà thành chứng nói lại cười v.v. Trờ lên, các bệnh thuộc về bốn mùa, có khi phát sinh bởi sáu khí, có khi phát sinh bời bổn mùa. Học giả nên lấy ý mà suy thời nghĩa lý tự rõ. Đây là nói về vận sáu khí cùa bốn mùa, có đức, có hóa, có chính, có lệnh, có biến, có bệnh.
(217) “Nhân ờ đâu để nhận xét v.v.”, nhự khí cùa Thái âm ở về Trường hạ, khí cùa Thái dương ở về mùa đông, khí cùa Thiếu âm ở về mùa hạ, khí của Dương minh ờ về mùa thu, khí của Quyết âm ở về mùa xuân. Lại như đông có nhiệt hóa, để nghiệm cái thắng cùa Thái âm; mùa hạ có hàn hỏa, để nghiệm cái thắng của Thái dương v.v.
(218) Đúng với bản vị, như Quyết âm bàn vị ờ tháng giêng, tháng hai v.v. “Phương”, như về năm Quyết âm chù tuế khí, thì Thái âm tự đặc ờ Tây, Bắc; Thái dương tự đặc ở Đông Nam; Thiếu âm tự đặc ở Tây, Nam; Thiếu dương tự đặc ờ chính Bắc v.v.
(219) Đây nói về sáu khí chù thời, cũng có chia ra trời đất doanh, hư, mà trên dưới cùng thắng. Nửa năm về trước, khí trời làm chù; nửa năm về sau khí đất làm chù. Vận ở vào khoảng giữa trời và đất, thường đến trước cái khí cùa trời đất để gây nên sự “thắng”. Cho nên nói: “Theo vận về thuận để sinh ra bệnh v.v.” Tức là nói cái khí của trời đất, theo với vận khí mà “bỉ, thử” tương thắng lẫn nhau. “Khí giao v.v.” là nói về tam khí, tứ khí giao hỗ với nhau. Như “thiên khí bất túc, địa khí sẽ theo”. Thời cái “tứ chi Thồ khí” trước giao hỗ với “tam khí” là Hỏa; như “địa khí” bất túc, thiên khí sẽ theo” Thì cái “tam chi Hòa khí, trước giao hỗ với tứ khí là Thổ v.v.” Đó là: hòa, thổ, từ, mẫu tương hợp, gọi là “về với đồng hóa” Tức là thắng mà “vi” “nhỏ” vậy. “Vi thòi tiểu sai” “Tiểu sai” ờ “kỷ” cùa “thiên”, vẫn chiếm bày phần, mà ba phần thi chiếm ờ “địa”. Ờ “kỷ” của “địa”, vẫn chiếm.