CHÂM CỨU CHỮA ĐAU DẠ DÀY CÓ HIỆU QUẢ?
Bệnh dạ dày có một triệu chứng hay gặp là “ngưng trệ”:
Dạ dày là một trong sáu phủ, và phủ này có chức năng truyền tống. Âm dương là biểu hiện tập trung đặc điểm sinh lý của dạ dày, dạ dày là dương thổ, ưa ẩm, nếu hợp với hạ thì sẽ hòa, mấu chốt của sự hòa của dạ dày nằm ở việc làm ẩm và hạ khí dạ dày, trì trệ và bệnh tật, chỉ bằng cách duy trì bản chất thoải mái và thư giãn, nó mới có thể phát huy sức mạnh của thức ăn và truyền thức ăn. Dạ dày là đoạn phình to của ống tiêu hóa, rất dễ bị các yếu tố gây bệnh bên ngoài xâm nhập.
Nguyên tắc chung là “ không thông thì đau, đau thì không thông”, câu này quan trọng nhất trong cơ chế bệnh sinh của các bệnh về dạ dày, một khi dạ dày bị tắc thì thủy sẽ biến thành ẩm ướt, biến thành ứ trệ, dẫn đến thức ăn ngưng trệ, khí trệ, huyết ứ, ẩm thấp, đờm ứ, hỏa ứ, cả sáu đều có thể sinh ra bệnh. Đau dạ dày cũng là một phản ứng bảo vệ của cơ thể con người, giống như sốt và ho, nó là do xung đột giữa chính khí và tà khí. Nếu người gầy yếu không có khả năng vận hóa và chuyển hóa, từ bên trong có thể sinh ra khí trệ, sinh ra bệnh hư, ứ trệ. Vì vậy, bệnh đau dạ dày cơ chế sinh bệnh không kể nóng lạnh. Lạnh thì ngưng tụ, nhiệt thì ngưng trệ, Dương không lợi, Âm bất lợi. Các tổn thương ở dạ dày làm nổi bật tính cách “ngưng trệ”.
Chữa bệnh dạ dày tập trung vào chữ “Thông”:
Dạ dày có nhiệm vụ tiếp nhận đồ ăn uống, và sau khi được tiêu hóa ở dạ dày, nó phải được đưa xuống ruột. Sự xuất nhập nhịp nhàng là quá trình cơ bản của cơ thể con người để duy trì các hoạt động sống. Một khi có bệnh tật, việc xuất nhập sẽ bị cản trở, ảnh hưởng đến việc vận chuyển cái thức ăn cũ và mới, chỉ có vào hoặc ít xuất thì kết quả cuối cùng là không vào được. Vì vậy, việc điều trị bệnh dạ dày chú trọng đến việc lưu thông luồng khí khí cơ, để kinh lạc trên và dưới không bị cản trở. Mặc dù hàn, nhiệt, hư thực.
Tuy nhiên việc chữa bệnh dạ dày cũng dự vào các nguyên nhân nêu trên có sự khác nhau về ôn, thanh, bổ, tả nhưng phương pháp điều trị luôn kèm theo là khai thông ứ trệ, Xuất xuống hạ tiêu trước nếu muốn Nhập vào (ăn vào). Cái gọi là “thông tắc” có nghĩa là truyền tống những chất ứ đọng lại, theo tính chất của dạ dày đi xuống để thúc đẩy cái cũ sinh ra cái mới, dẫn đường cho khí trệ đi xuống, mở đường thoát cho các loại bệnh sinh ra. . Những cái thực không thể lấp đầy được, những cái hư không thể lấp đầy bằng thực tà, và giữa hư và thực có mối liên hệ hõ trợ nhau.
Dùng Đông dược trị bệnh dạ dày:
“Thương hàn luận” “Đại sài hồ thang” có tác dụng điều trị triệu chứng Thiệu Dương – Dương minh hợp bệnh, dưới Tâm khí đầy tức khó chịu, dưới Tâm đầy tức sờ thấy cứng (kết phân) dung phép hạ (gây đại tiện) loại bỏ ứ trệ. Trong bài có Sài hồ sơ can giải uất; Chỉ thưc thuận khí phá kết trệ, nhuận trường thúc đẩy đại tiện; Bạch thược giải uất trệ trong khí huyết; Khương hoàng làm ấm dạ dày giáng nghịch; Đại hoàng tìm một lối thoát để giải uất, trừ trệ. Tất cả các loại thuốc đã hòa hợp, phản ánh chữ “thông”. Hà thủ ô thường được thêm vào để tăng sinh lực cho trung tiêu, phối hợp với Trần bì, bổ vào hư hàn; thêm Cam thảo cùng với Đơn bì, có tác dụng giảm đau, Mẫu đơn bì có công năng bảo vệ âm dương. Đau dạ dày thường là biểu hiện của khí huyết ứ trệ một chỗ cố định, Đan bì dùng để dưỡng huyết, hoạt huyết.
Châm cứu điều trị bệnh Dạ dày:
Y học Cổ truyền chỉ ra rằng dạ dày có nhiệm vụ tiếp nhận và phân hủy nước và các loại ngũ cốc, đồng thời dạ dày được kết nối với các cơ quan khác thông qua các đường kinh lạc. Nếu mầm bệnh xâm nhập vào dạ dày, như ngoại sinh lạnh, ăn quá nhiều đồ lạnh, ăn uống không hợp lý, đều có thể tích lạnh ở trung tiêu, làm cho dạ dày bị ức chế hoặc thức ăn bị ứ trệ không phân giải được, làm tắc nghẽn khí cơ; nếu Can khí phạm dạ dày, chẳng hạn như khí trệ và huyết ứ, Gan ngưng trệ và khí trệ xâm nhập vào dạ dày, gan ứ chuyển thành hỏa, và tức giận xâm nhập vào dạ dày có thể làm cho dạ dày ngưng trệ khí hoặc rối loạn khí dạ dày, và đau đớn; Nóng lên hoặc lo lắng mà sinh ra đau.
Tóm lại, tuy vị trí đau dạ dày là ở dạ dày nhưng lại liên quan mật thiết đến gan và Tụy. Tuy có nhiều nguyên nhân nhưng bệnh sinh không được biết rõ và gây đau đớn. Điểm chính của phân biệt hội chứng trước hết cần phân biệt hội chứng hư và thực , những hội chứng đau nặng đa phần là thực chứng, những hội chứng nhẹ hơn đa phần là hư chứng.
Một số huyệt thường dung:
Tùy chứng gia giảm: lạnh xâm nhập vào dạ dày, thêm Túc tam lý. Chế độ ăn uống trì trệ, cộng với Thiên xu, Thượng quản, Hạ quản. Gan khí xâm phạm vào dạ dày, cộng với Nội quan phải và Túc tam lý bên phải. Tỳ, Vỵ hư, thêm Túc tam lý và Quan nguyên. Nếu dạ dày hư, hãy thêm Nội quan và Túc tam lý.