Hiện nay trên thế giới điều trị vô sinh do không có ống dẫn tinh bẩm sinh, hoặc tắc đường dẫn tinh theo một trong hai hướng:

Phẫu thuật tạo nang túi tinh giả rồi sau đó chọc, hút tinh trùng, và làm thụ thai nhân tạo (IUI, IVF).

Hoặc chọc hút tinh trùng từ mào tinh, bơm vào tương bào trứng.

Phẫu thuật tạo nang tinh giả được Hanley tiến hành lần đầu tiên vào năm 1955 bằng túi màng ối, kết quả là người vợ có thai,1968 Schoyman làm bằng tĩnh mạch hiển ở 17 trường hợp, 3 trường hợp có thai ; J.F.Jimenez. Cru mổ 2 trường hợp, kết quả từ 10-20 tinh trùng trên vi trường, di động kém. Sau đó tác giả làm thực nghiệm trên động vật với nang túi tinh bằng Polypropylene đạt kết quả tốt, và áp dụng thành công trên 1 trường hợp. 15 tháng sau nang túi vẫn còn chức năng. Nhưng kết quả của phẫu thuật tạo nang túi tinh nhân tạo chỉ cho kết quả chừng 1-4% có thai.

Chúng tôi tiến hành làm nang túi tinh nhân tạo cho một số bệnh nhân, có trường hợp làm bằng bao trắng của tinh hoàn, kiểm tra sau 3 tháng nang túi tinh teo dính sát vào tinh hoàn. Một số trường hợp làm bằng Polypropylene, 50% các trường hợp cho kết quả tốt. Có trường hợp kiểm tra sau gần một năm, kết quả vẫn đảm bảo để tiến hành trợ giúp sinh sản. Dưới đây là hình ảnh tinh dịch đồ của bệnh nhân nang túi tinh nhân tạo do không ống dẫn tinh bẩm sinh.

Vì là những bệnh nhân đầu tiên, chúng tôi chưa có Kinh nghiệm điều trị, Chúng tôi cho rằng vấn đề này cần được tổ chức nghiên cứu cơ bản.

KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỐI ỐNG DẪN TINH CỦAMỘT SỐ TÁC GIẢ TRÊN THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC

Bảng 6.3. Kết quả nối ODT của chúng tôi và các tác giả trên thế giới

Tác giả Năm Lưu thông % Có thai %
LeeHy 1966 93 7.14
1986 84 35
Silber JS 1976 70 25
1977 91 71
1987 90 47
Belker AM. 1978 75 43
Arlaypakai w. 1983 95 70
Noldus J. 1992 71 43
Schumcki 1984 71 45,45
Anh – Chiến – Vệ 2000 75 46,7

Kết quả phẫu thuật nối phục hồi sau triệt sản nam, cho lưu thông miệng nối từ 70-93%, có thai không vượt quá 71%. Nhóm bệnh nhân của chúng tôi về lưu thông miệng nối 75% và có thai 45,6%. Như vậy sự lưu thông và có thai của nhóm bệnh nhân chúng tôi cũng nằm trong giới hạn kết quả của các tác giả khác. Điều này góp phần kết luận sự lựa chọn phương pháp phẫu thuật có cải tiến để nối ODT sau thắt triệt sản và chỉ định phẫu thuật của chúng tôi là điều đáng lưu ý.

Phẫu thuật trong ống dẫn tinh để điều trị vô sinh nam giới tuy đã có nhiều bước tiến bộ đáng kể, nhưng kết quả vẫn chưa làm hài lòng giới chuyên môn cũng như người bệnh.
KẾT LUẬN

Ngày nay nhờ sự phát triển của các dược phẩm nội tiết, phương tiện, kỹ thuật chẩn đoán vô sinh nam giới. Sự xuất hiện và phát triển của các phương pháp hỗ trợ sinh sản như: IUI, IVF, GIF đặc biệt là ICSI, kết quả có thai đã được cải thiện đáng kể. Sự xuất hiện của sinh sản vô tính trên động vật, mà cụ thể là cứu Dolly. Nếu được nghiên cứu đầy đủ có thể là một hứa hẹn của vô sinh nói chung và vô sinh nam giới nói riêng.

Bài trướcPhẫu thuật nối ống dẫn tinh-mào tinh (Vasoepididymostomy: V-E)
Bài tiếp theoTổng quan bệnh rối loạn cương dương

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.