THIẾU MÁU

Khái niệm về thiếu máu

Máu là một dịch thể lưu thông tuần hoàn trong cơ thể, bao gồm tế bào máu và huyết tương. Tế bào máu gồm hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu, trong đó hồng cầu là yếu tố trực tiếp liên quan đến sự thiếu máu.

Hồng cầu người có tuổi thọ trung bình là 120 ngày, trong điều kiện sinh lý bình thường và số lượng hồng cầu ổn định, có sự cân bằng liên tục giữa số lượng hồng cầu bị chết và số lượng hồng cầu được sinh ra. Thiếu máu chỉ xảy ra khi sự cân bằng đó bị phá vỡ: hồng cầu bị phá hủy nhiều hoặc được sản sinh ra quá ít.

Hồng cầu bị phá hủy nhiều có thể do chảy máu hoặc tan máu nghiêm trọng; trong cả hai trường hợp, cơ chế bệnh xảy ra ở ngoại vi còn tủy xương vẫn tìm cách bù trừ, thiếu máu chỉ xuất hiện khi tủy xương không còn khả năng bù được nữa.

Hồng cầu sản sinh không đủ cũng có thể do hai cơ chế: tủy xương không sinh được đủ hồng cầu, hoặc sinh được máu nhưng kém chất lượng không có hiệu lực.

Trong hồng cầu có chứa huyết cầu tố (hemoglobin), chức năng của hồng cầu chủ yếu là do huyết cầu tố đảm nhiệm. Nhiệm vụ chủ yếu của huyết cầu tố là vận chuyển O2và CO2, nồng độ huyết cầu tố trong hồng cầu là 32 – 38g/dl, trung bình ở người Việt Nam từ 20 – 23,6mmol/l.

Định nghĩa

Thiếu máu là sự giảm sút lượng huyết cầu tố lưu hành trong hệ tuần hoàn và mọi hậu quả của thiếu máu đều liên quan đến tỷ lệ huyết cầu tố.

Nồng độ huyết cầu tố trung bình và thể tích trung bình của mỗi hồng cầu khác nhau tùy từng hội chứng thiếu máu, do vậy lượng huyết cầu tố cũng khác nhau đối với cùng một số lượng hồng cầu.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa: thiếu máu xảy ra khi mức độ huyết cầu tố lưu hành của một người nào đó thấp hơn mức độ của người khỏe mạnh cùng giới cùng tuổi và cùng sống trong một môi trường.

Về đại thể: thiếu máu là một hội chứng bệnh lý do nhiều nguyên nhân gây ra làm cho tổng lượng hồng cầu lưu thông trong máu giảm dưới mức bình thường, làm cho máu không cung cấp đủ O2cho tế bào.

Bình thường ở người lớn: hồng cầu ở nam là 4200000 ± 210000 ở nữ 3800000 ± 160000

Thể tích trung bình của hồng cầu: MCV = 90 ± femtolit (fl)

Nồng độ huyết sắc tố trung bình từ 32 – 38g/dl

Gọi là thiếu máu khi có ít nhất 2 trong 3 điều kiện sau:

Thể tích hồng cầu giảm dưới mức bình thường

Nồng độ huyết sắc tố giảm dưới mức bình thường

Số lượng hồng cầu/mm3giảm dưới mức bình thường

Phân loại thiếu máu

Nguyên liệu để tạo ra hồng cầu chủ yếu là protein và nguyên tố sắt. Để phát triển hồng cầu cần đến các chất phụ trợ với những liều lượng thích hợp như vitamin B12, acid folic. Ngoài ra sự tạo ra hồng cầu cũng cần đến vitamin B6, B2, C, E và các nguyên tố vi lượng như đồng, mangan, cobalt, kẽm…

Như vậy nếu thiếu các yếu tố trên trực tiếp hoặc gián tiếp sẽ sinh ra thiếu máu.

Khuynh hướng chung khi phân loại các trạng thái thiếu máu thường căn cứ vào:

Nồng độ huyết sắc tố trong hồng cầu: để xác định là ưu sắc, đẳng sắc hay nhược sắc.

Thể tích của hồng cầu: để xác định loại hồng cầu là to, nhỏ hay trung bình.

Có nhiều cách phân loại thiếu máu nhưng người ta thường phân theo 2 cách dựa vào hình thái, màu sắc và dựa vào sinh lý bệnh của thiếu máu.

Bệnh thiếu máu chữa bằng đông y

Bệnh thiếu máu gây chóng mặt

Dựa vào hình thái và màu sắc của hồng cầu

Loại này chủ yếu căn cứ vào thể tích trung bình của hồng cầu (MCV) và nồng độ huyết cầu tố trung bình của hồng cầu (MCHC), thường có 3 loại thiếu máu:

Thiếu máu nhược sắc, hồng cầu nhỏ: thông thường là do thiếu yếu tố sắt nên có biểu hiện lượng huyết cầu tố giảm rõ rệt làm cho kích thước hồng cầu nhỏ (MVC < 80fl; MCHC <32%).

Thiếu máu đẳng sắc, hồng cầu bình thường: MCV bình thường từ 80 – 100Fl, MCHC đa số ở mức bình thường tức 32 – 36%, MCH ở mức bình thường (huyết sắc tố giảm song song với hồng cầu, giá trị hồng cầu lúc nào cũng =1, không có thay đổi thể tích hồng cầu, nồng độ huyết sắc tố trung bình trong hồng cầu bình thường). Loại thiếu máu này thường gặp trong: Xuất huyết cấp. Tán huyết cấp. Viêm nhiễm kinh niên. Suy tủy.

Thiếu máu ưu sắc, hồng cầu to: huyết sắc tố giảm ít hơn so với hồng cầu, giá trị hồng cầu > 1.

MCV>100fl, MCHC>36%. Loại thiếu máu này chủ yếu do thiếu vitamin

B12hoặc acid folic.

Trong máu thấy hồng cầu khổng lồ, hồng cầu to, một vài hồng cầu có nhân, thể tích hồng cầu trung bình > 120àm3.

Dựa vào sinh lý bệnh

Loại này người ta phân ra 3 loại nhỏ:

Thiếu máu do tăng phá hủy hồng cầu: còn gọi là thiếu máu tán huyết do bẩm sinh và những nguyên nhân khác, hồng cầu có hình dạng khác thường, MCV bình thường, MCHC bình thường hoặc hơi tăng. Nguyên nhân do bản thân hồng cầu: có thể do dị tật của bản thân hồng cầu như: hồng cầu hình cầu di truyền, hồng cầu hình bầu dục có tính gia đình, hồng cầu hình gai bẩm sinh hoặc mắc phải, phospholipid của màng hồng cầu không bình thường, bệnh do thiếu hụt men trong chuyển hóa, huyết cầu tố không ổn định, sự thiếu hụt các dây globin, bệnh thalassemia vùng biển v.v… + Nguyên nhân ngoài hồng cầu:

Do sử dụng hóa chất (như: chì, thạch tín), hoặc do nọc độc côn trùng hay rắn độc cắn phải.

Do nhiễm trùng nặng, nhiễm ký sinh trùng sốt rét, nhiễm virus.

Do phỏng rộng hoặc tổn thương hệ tuần hoàn.

Do cường lách.

Do nguyên nhân miễn dịch, bất đồng nhóm máu ABO, bệnh tự miễn, truyền máu không phù hợp.

Thiếu máu do giảm sản sinh hồng cầu: Do suy tuỷ xương: chức năng tạo máu của tủy xương bị suy yếu do tủy bị huỷ hoại hoặc thiếu yếu tố kích thích, hồng cầu giảm ngày càng nặng, hồng cầu lưới rất hiếm hoặc mất hẳn. Do thiếu nguyên liệu tạo máu: như thiếu sắt, protein, vitamin B12, acid folic.

Nguyên nhân: vì hấp thu không đủ, hấp thu kém hoặc do nhu cầu tăng, do mất máu quá nhiều.

Thiếu máu do mất máu: bao gồm mất máu cấp và mạn tính. Do mất máu cấp tính: hình dạng hồng cầu bình thường, đẳng sắc, đẳng bào. Do mất máu mạn tính: thường kèm theo thiếu sắt nên phần nhiều là thiếu máu do thiếu sắt thuộc loại thiếu máu nhược sắc.

Hai cách phân loại trên đều có các ưu điểm riêng, do đó trên lâm sàng thường vận dụng phối hợp bổ sung cho nhau giúp chẩn đoán và điều trị dễ dàng, như vậy dù theo cách phân loại nào thiếu máu cũng liên quan đến nguyên liệu tạo máu là sắt, vitamin B12, acid folic, protein v.v. (cả do mất máu hay do giảm sản sinh hồng cầu) và có liên quan đến các yếu tố bẩm sinh hay bệnh lý làm tăng phá huỷ hồng cầu.

Đặc điểm dịch tễ học

Tất cả các loại thiếu máu nêu trên đều có hiện diện ở Việt Nam nhưng mức độ xuất hiện bệnh có tỷ lệ khác nhau.

Thiếu máu nhược sắc do thiếu sắt: theo thống kê của Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương thì thiếu máu do giun móc chiếm 30%, do loét dạ dày 15,17%.

Trong một cuộc điều tra thực tế, các tác giả phát hiện 50% nông dân bị nhiễm ký sinh trùng đường ruột, trong đó chủ yếu là giun móc.

Thiếu máu do tan máu: cũng gặp khá nhiều.

Theo số liệu của Viện Bảo vệ sức khỏe trẻ em Trung ương, số trẻ bị bệnh huyết cầu tố chiếm 49%. Thiếu máu tan máu cũng có gặp ở người lớn, đa số là tan máu tự miễn có kháng thể tự sinh với nghiệm pháp Coombs dương tính phù hợp với các tài liệu quốc tế.

Thiếu máu do dinh dưỡng: Về mặt dịch tễ học, thiếu sắt là nguyên nhân chủ yếu gây thiếu máu do dinh dưỡng; sau đó là thiếu acid folic, vitamin B12và protein. Tình trạng thiếu máu do dinh dưỡng rất phổ biến trên thế giới, nhất là ở các nước đang phát triển, ước tính có từ 500 triệu đến 1 tỷ người bị bệnh, thường là ở phụ nữ và trẻ em. Tình trạng thiếu máu do dinh dưỡng rất phổ biến ở Việt Nam, nhất là trẻ em và phụ nữ có thai. Theo Viện Nghiên cứu nhi khoa 1989, tỷ lệ thiếu máu do dinh dưỡng ở trẻ em và phụ nữ như sau: số trung bình thiếu máu ở trẻ dưới 3 tuổi ở đồng bằng là 35%, ở miền núi là 49,5%; ở phụ nữ có thai ở thành phố là 37% và ở nông thôn là 41,7%.

Quan niệm về thiếu máu theo y học cổ truyền

Nói đến máu là nói đến một dịch thể có màu đỏ lưu thông tuần hoàn giúp cho hoạt động trong cơ thể, tương ứng trong Đông Y nói đến huyết. Điều này còn được chứng minh khi mô tả về mặt triệu chứng học của thiếu máu như: xanh xao, mệt mỏi, giảm gắng sức, niêm mạc nhợt nhạt, lưỡi lở, buồn nôn, chán ăn…. cũng được mô tả trong các chứng huyết hư, hư lao do khí huyết hư …

Tuy nhiên, Y học hiện đại và Đông Y có hai hệ thống lý luận khác nhau. Về mặt lâm sàng triệu chứng thiếu máu cũng biểu hiện tương tự chứng huyết hư, nhưng khi bệnh nhân có huyết hư chưa hẳn là có thiếu máu.

Huyết là một trong 5 dạng vật chất giúp cho cơ thể sống hoạt động đó là: tinh, khí, thần, huyết và tân dịch.

Huyết được tạo ra bởi tạng tỳ và tạng tâm: tỳ biến hóa các chất tinh vi của thức ăn uống thành ra tinh và tâm khí hoá một phần tinh ra thành sắc đỏ gọi là huyết.

Trong hoạt động của cơ thể, khí và huyết là hai dạng vật chất luôn đồng hành, trợ lực, và chức năng luôn quyện vào nhau, huyết hữu hình còn khí thì vô hình, huyết thì tĩnh mà khí thì luôn động, huyết có khí mới lưu thông được, khí có huyết mới có nơi nương tựa và giữ gìn. Cả hai yếu tố này trao đổi tác dụng và nương tựa vào nhau giúp nuôi dưỡng cũng như mọi hoạt động của cơ thể, nên khi biểu hiện triệu chứng huyết hư có lẫn triệu chứng của khí.

Huyết được sinh ra tưới nhuận các kinh lạc, chu lưu khắp toàn thân, giúp nuôi dưỡng cơ thể, giúp vinh nhuận da lông và giúp cho các tạng phủ hoạt động. Mắt nhờ huyết mà trông được, tai nhờ huyết mới nghe được, ngón tay và bàn tay nhờ huyết mới cầm nắm được, chân nhờ huyết mới đi được, các tạng nhờ huyết mới thu rút lại và tàng trữ được, các phủ nhờ huyết mới tiết được. Sau giai đoạn vận hành, huyết lại được trở về tàng trữ ở can. Tỳ vừa có vai trò sinh ra huyết, vừa có vai trò điều khiển huyết ở đúng vị trí của nó (thống nhiếp huyết), nếu huyết không ở đúng chỗ là xảy ra chứng xuất huyết như: khái huyết (ho ra máu), thổ huyết – ẩu huyết (ói ra máu), khạc huyết, thóa huyết (nhổ ra huyết), tỵ nục (chảy máu mũi), não nục, mục nục, nhĩ nục, xĩ nục, thiệt nục, đại nục, hãn huyết, tiện huyết, niệu huyết, ứ huyết v.v.

Như vậy việc sinh ra huyết và hoạt động của huyết có liên quan trực tiếp đến hoạt động của các chức năng tỳ, tâm và can; gián tiếp có liên quan đến phế và thận, vì phế tàng trữ cũng như điều khiển hoạt động của khí, thận nạp khí và hỗ trợ hoạt động khí hoá thức ăn uống của tỳ cũng như chịu trách nhiệm về nguyên âm và dịch chất cho toàn cơ thể nói chung trong đó có huyết. Do đó khi có rối loạn về chức năng các tạng nêu trên là có ảnh hưởng đến huyết, và ngược lại khi có rối loạn về huyết thì cũng có khả năng ảnh hưởng đến một trong các chức năng của các tạng nói trên.

NGUYÊN NHÂN VÀ CƠ CHẾ SINH BỆNH CỦA THIẾU MÁU

Theo y học hiện đại

Thiếu máu nhược sắc

Nguyên nhân

Thiếu máu nhược sắc do thiếu sắt: có 4 nguyên nhân chính Do cung cấp thiếu sắt: như trẻ bị thiếu sữa mẹ, trẻ ăn không đúng và đủ chất dinh dưỡng, thiếu thức ăn nguồn động vật, ăn bột quá nhiều kéo dài, thiếu dinh dưỡng, trẻ đẻ non hoặc thiếu cân, người mẹ trong thời gian có thai và cho con bú bị thiếu sắt Do hấp thu sắt kém như bị mắc các bệnh mạn tính đường tiêu hóa, tiêu chảy kéo dài, bị hội chứng kém hấp thu, bị cắt dạ dày, bị bệnh coeliaque.. Do bị mất quá nhiều sắt như chảy máu mạn tính, chảy máu tiêu hóa, bị bệnh ký sinh khuẩn đường ruột như giun móc, Schistosome. Do nhu cầu sắt cao trong các giai đoạn phát triển cơ thể nhanh ở trẻ em mà cung cấp sắt không kịp thời, ở phụ nữ có thai nhiều lần và sinh liền nhau.

Thiếu máu nhược sắc không do thiếu sắt: trong máu thấy hồng cầu kích thước bình thường hoặc to, ít khi gặp hồng cầu nhỏ, giá trị hồng cầu giảm nhiều hoặc ít, nồng độ sắt huyết thanh cao có khi > 35,8àmol/l; thường gặp trong: Rối loạn chuyển hóa huyết sắc tố trong một số trường hợp nhiễm độc, cơ thể thiếu đạm hoặc thiếu vitamin B6. Bệnh thiếu máu vùng biển Thalassemia. + Rối loạn về hormon như thiểu năng giáp trạng.

Sinh bệnh học của thiếu máu nhược sắc

Sinh bệnh học của thiếu máu nhược sắc do thiếu sắt: một trong những thành phần quan trọng cần thiết cho sự thành lập hồng cầu là lắt. Sắt kết hợp với protoporphyrin III để tạo thành phân tử Hem, 4 phân tử Hem kết hợp với 1 phân tử globin để tạo thành hemoglobin. Nếu thiếu sắt sẽ gây thiếu máu nhược sắc. Sự hấp thu sắt: sắt được hấp thu ở phần trên của bộ máy tiêu hóa, chủ yếu ở tá tràng và hỗng tràng, khi thiếu sắt trầm trọng sắt được hấp thu cả ở đại tràng.

Sự hấp thu sắt tăng lên khi dự trữ sắt giảm, khi thiếu máu, khi có thai, khi hành kinh và khi cho con bú. Ngược lại sự hấp thu sắt giảm khi truyền máu, tiêm chất sắt..v..v….

Nhiều yếu tố làm thuận lợi cho sự hấp thu sắt như: thịt, gan, cá làm tăng hấp thu sắt nguồn gốc thực vật; tương tự acid ascorbic, acid clohydric khử Fe+++thành Fe++, ion hóa sắt không Hem, làm tăng hấp thu sắt.

Ngược lại, nhiều yếu tố làm giảm sự hấp thu sắt như: sữa, lòng đỏ trứng, phomat làm giảm hấp thu sắt nguồn gốc thực vật. Trà tạo thành tanin làm cho sắt không tan; cũng như phosphat, carbonat, oxalat tạo thành các phức hợp sắt lớn khó tan nên khó hấp thu.

Hầu hết sắt trong cơ thể ở dưới dạng kết hợp: sắt Hem và sắt không Hem.

Sắt Hem gồm sắt chứa trong huyết sắc tố (hemoglobin), myoglobin và trong một số enzym.

Sắt không Hem gồm sắt vận chuyển và dự trữ:

Sắt vận chuyển gắn với một protein gọi là transferin hay siderophylin sản xuất từ gan. Transferin có vai trò vận chuyển sắt tới cơ quan sử dụng, nhất là cơ quan tạo hồng cầu và thu hồi sắt giải phóng ra từ hồng cầu bị phá hủy. Transferin tham gia điều hòa hấp thu sắt, sắt hấp thu dễ hơn khi bão hòa transferin thấp và ngược lại. Sự tổng hợp transferin giảm trong trường hợp thiếu protein nặng. Ngoài transferin còn có các protein gắn sắt khác như lactoferin, feritin, nhưng không có vai trò vận chuyển sắt.

Sắt dự trữ chiếm 30% sắt toàn bộ cơ thể, khoảng 600 – 1200mg ở người lớn, 35 – 50mg ở trẻ sơ sinh được dự trữ ở gan, lách, tủy xương.

Hai dạng sắt dự trữ chủ yếu là hemosiderin và feritin. Hemosiderin không hòa tan, hầu như cố định ngay cả khi có nhu cầu, còn feritin hòa tan trong nước dễ huy động. Lượng feritin huyết tương rất ít, song phản ảnh chính xác sự dự trữ sắt ở tổ chức cơ thể. Sự thải sắt: lượng sắt thải ra ngoài cơ thể hằng ngày khoảng 14àg/kg thể trọng; một phần theo phân, mật và các tế bào ruột bong ra; phần khác mất qua nước tiểu, mồ hôi và các tế bào bong ra từ da, niêm mạc, móng, tóc; đối với phụ nữ, sắt còn mất qua chu kỳ kinh 0,8 – 1mg/ngày và nếu kinh nguyệt nhiều có thể mất tới 1,4 mg/ngày. Như vậy lượng sắt mất đi hằng ngày là:

0,4 – 0,5mg đối với trẻ dưới 1 tuổi.

0,8 – 1mg đối với người lớn nam giới.

1,6 – 2mg (có thể nhiều hơn) đối với phụ nữ. Biểu hiện lâm sàng của thiếu máu thiếu sắt thiếu máu nhược sắc là tình trạng thiếu máu mạn tính, xuất hiện từ vài tháng cho đến vài năm, do thiếu sắt. Lượng huyết cầu tố giảm nên khả năng vận chuyển oxy tới tổ chức thiếu, ảnh hưởng lên nhiều cơ quan bộ phận.

Tuần hoàn tim mạch: mệt, hồi hộp, đánh trống ngực, rõ nhất lúc hoạt động. Nghe tim có âm thổi tâm thu cơ năng dọc bờ trái xương ức, nếu thiếu máu mạn nặng kéo dài có nguy cơ suy tim, ở người già dễ bộc lộ cơn đau thắt ngực khi có xơ mỡ động mạch kèm theo.

Thần kinh: nhức đầu, chóng mặt, ù tai, ngủ gà.

Hô hấp: thở nhanh nông.

Tiêu hóa: ăn chậm tiêu, rối loạn tiêu hóa kéo dài như khó nuốt, ở dạ dày có biểu hiện như viêm dạ dày, teo niêm mạc dạ dày và giảm độ toan dịch vị.

Da, niêm mạc, lông tóc, móng: da xanh, niêm mạc nhợt nhạt, thiếu máu nặng niêm mạc có thể trắng bợt, lưỡi mất gai, lưỡi bị viêm khó lành, móng chân tay nhợt nhạt, bẹt hoặc lõm, có khía dễ gãy, móng mất độ bóng, da khô ngứa, tóc dễ rụng.

Cơ xương khớp: đau cơ, đau xương – khớp xương.

Sinh dục: nam: bất lực; nữ: kinh ít, vô kinh.

Ngoài ra thiếu máu thiếu sắt có thể là biểu hiện đầu tiên của một ung thư dạ dày – ruột. Cận lâm sàng của thiếu máu thiếu sắt: đặc điểm của thiếu máu thiếu sắt là thiếu máu nhược sắc và hồng cầu nhỏ.

Hồng cầu nhỏ khi thể tích trung bình của hồng cầu dưới 80fl, và nhược sắc khi nồng độ trung bình huyết cầu tố của mỗi hồng cầu giảm dưới 30%.

Tỷ lệ huyết cầu tố giảm nhiều, nhưng hồng cầu ít khi giảm xuống dưới 2,5 triệu mỗi mm3. Do sự tổng hợp huyết cầu tố giảm nên protoporphyrin tự do hồng cầu tăng trên 700àg/l. Protoporphyrin tăng rất sớm từ khi thiếu sắt còn rất nhẹ.

Tỷ lệ sắt huyết thanh giảm dưới 500àg/l khả năng gắn sắt toàn phần tăng nên chỉ số bão hoà transferin dưới 16%.

Feritin huyết thanh giảm: định lượng feritin có giá trị phản ảnh đúng tình trạng dự trữ sắt của cơ thể, có sự song song giữa lượng sắt huyết thanh với mức độ dự trữ sắt trong cơ thể, khi thiếu sắt lượng feritin huyết thanh giảm dưới 12àg/l.

Trong máu ngoại vi, hồng cầu lưới và tiểu cầu có số lượng bình thường, bạch cầu bình thường, sức bền hồng cầu bình thường.

Tủy đồ: tăng các hồng cầu có nhân, chiếm ưu thế là các tiền nguyên bào hồng cầu ưa base; ngoài ra sự biến mất hemosiderin trong tủy xương là đặc trưng của thiếu máu do thiếu sắt.

Thiếu máu nhược sắc không do thiếu sắt: Rối loạn chuyển hóa huyết sắc tố trong nhiễm độc, trong trường hợp cơ thể thiếu đạm và vitamin B6: sự thiếu các acid amin cần thiết, làm cho thiếu năng lượng kéo dài gây ra thiếu máu, thường trong thiếu máu do thiếu protein thường lẫn trong thiếu sắt và acid folic phối hợp… Hội chứng Thalassemia: được xếp vào nhóm thiếu máu tan máu di truyền nhưng vòng sinh của hồng cầu ngắn ngày và giai đoạn tan máu cấp hiếm được thấy trên lâm sàng.

Do việc tổng hợp sai chuỗi globin (ỏ hoặc õ) của phân tử HbA ở người lớn dẫn tới một cấu trúc Hb thiếu sót và gây nên quá trình tổng hợp Hb không thích hợp ở hồng cầu, hình thành nên những hồng cầu nhỏ nhược sắc. Đây là nhóm bệnh huyết sắc tố ngày càng trở nên phức tạp có nhiều những yếu tố dị nguyên: hình thức đồng hợp tử của Thalassemia, trạng thái dị hợp tử và sự phối hợp của gien Thalassemia với những gien gây bệnh Hb khác, những rối loạn di truyền và những rối loạn Hb trong thời kỳ thai nhi.

Hội chứng Thalassemia được xếp loại đơn giản là: nặng, trung bình và nhẹ, có vết với những hình ảnh lâm sàng là kết quả của sự kết hợp không đồng nhất giữa các gen thiếu sót ở nhiễm sắc thể số 16 và số 11. Những thiếu sót có thể ảnh hưởng đến sự tổng hợp globin ở những mức độ khác nhau và có những cơ chế bệnh khác nhau được xếp dựa trên sự thiếu hụt một phần hay toàn bộ gien, những bất thường do mất đoạn, thiếu đoạn hoặc chuyển đoạn từ những gien có cấu trúc bình thường.

Thiếu máu ưu sắc, tế bào to

Nguyên nhân:

Chủ yếu do thiếu vitamin B12hoặc acid folic, hoặc cả hai.

Thiếu acid folic: ngoại trừ những rối loạn hấp thu thiếu acid folic hay folat thường do ăn kiêng không thích hợp (đặc biệt những người trung niên, nghiện rượu, thiếu ăn hoặc bệnh do chán ăn) hoặc do tăng nhu cầu sử dụng trong bệnh ác tính, có thai, sốt cao, nhiễm khuẩn v.v…

Thiếu folat thường phối hợp với thiếu sắt nhiều hơn là thiếu B12, được thấy trong hội chứng rối loạn hấp thu, có thai và bệnh ác tính đường ruột – dạ dày với những chảy máu kín đáo.

Thiếu vitamin B12Chế độ ăn không thích hợp: người ăn chay. Thiếu yếu tố nội bao gồm: thiếu máu ác tính trong bệnh Addison; thiếu yếu tố nội bẩm sinh; do phẫu thuật cắt dạ dày …. Sự phân ly phức hợp B12và yếu tố nội: vi khuẩn phát triển mạnh trong bệnh túi thừa, xơ cứng bì, bệnh Whipple. Bệnh đường ruột: bệnh kém hấp thu mạn tính nhiệt đới hồi tràng tận bị ảnh hưởng; bệnh Crohn; cắt bỏ trên 60cm ruột hồi; sán… Các nguyên nhân khác: thiếu dịch tụy nặng, nhược giáp, dùng thuốc…

Sinh bệnh học của thiếu máu ưu sắc tế bào to

Acid folic được phân bố hầu hết ở các mô cơ thể, đặc biệt là gan. Các dẫn chất của acid folic tham gia vào chuyển hóa một số acid amin, base purin, pyrimidin của acid nucleic, thiếu acid folic làm cho sự phân chia tế bào bị chậm lại nhất là những tế bào đổi mới nhanh như tế bào máu gây thiếu máu. Các tế bào cơ thể người không tổng hợp được acid folic mà cơ thể được cung cấp acid folic qua thức ăn. Acid folic có nhiều trong thịt, gan, thận, trứng, men mốc và ở hầu hết các rau xanh sẫm màu.

Vitamin B12bao gồm các chất gọi là cobalamin. Vitamin B12có trong tất cả các tổ chức của cơ thể, nhưng tập trung chủ yếu ở gan và thận. Vitamin B12rất cần thiết cho tổng hợp acid amin và tổng hợp mạch ADN trong sự phân chia tế bào. Thiếu viatmin B12làm sự phân chia tế bào chậm lại, đặc biệt ở các tổ chức nhanh như tổ chức tạo máu gây nguy cơ thiếu máu.

Vitamin B12được tổng hợp do các vi khuẩn chủ yếu là vi khuẩn ở ruột. ở người sự tổng hợp này không đủ cho nhu cầu cơ thể mà phải được bổ sung qua thức ăn.

Nguồn thức ăn có vitamin B12gồm thịt nhất là thịt bò, gan, sữa, trứng. Vitamin B12tương đối bền vững với nhiệt.

Biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng của thiếu máu ưu sắc tế bào toư Khi do thiếu acid folic: Nổi bật nhất là: da xanh, niêm nhợt nhạt, người bệnh mệt mỏi, chóng mặt, kém hoạt động, lao động yếu, khó thở khi gắng sức. Triệu chứng về tiêu hóa như chán ăn, buồn nôn, hay nôn, tiêu chảy, viêm miệng, viêm lưỡi – lưỡi mất gai, gan to. Triệu chứng về thần kinh như mệt mỏi, run tay chân, chóng mặt, tăng trương lực cơ. Đối với phụ nữ có thai: thiếu máu do thiếu acid folic dễ bị sẩy thai, đẻ non, cân nặng trẻ thấp, dị tật thai, nhau bám bất thường dễ có nguy cơ tai biến sản khoa. Cận lâm sàng: biểu hiện lượng hồng cầu giảm, huyết sắc tố giảm, hồng cầu không đều, thể tích hồng cầu trung bình >100fl, hồng cầu lưới giảm thấp. XN tủy đồ thấy nhiều nguyên hồng cầu khổng lồ.

Về hóa sinh acid folic huyết thanh giảm dưới 3àg/ml, folat hồng cầu < 100àg/ml.

Khi do thiếu vitamin B12: Thiếu máu từ từ, da xanh, niêm nhợt nhạt. Rối loạn tiêu hóa như chán ăn, hay nôn, tiêu chảy, viêm lưỡi, gan có thể to Rối loạn thần kinh nhẹ như mệt mỏi, chóng mặt, rối loạn cảm giác sâu, đau mỏi, run tay chân …

Nguyên nhân bệnh sinh thiếu máu theo y học cổ truyền

Nguyên nhân bệnh sinh

Bệnh nặng lâu ngày tổn thương tạng phủ

Bệnh lâu ngày do lục dâm hoặc thất tình làm cho chức năng tạng phủ bị tổn thương như tỳ hư không vận hóa thủy cốc để tạo ra tinh ra huyết; tâm hư không khí hóa được tinh ra thành sắc đỏ gọi là huyết; phế hư làm cho khí suy kém, huyết không vận hành, huyết ứ không kích thích được để tạo huyết mới; thận hư không nạp khí hoặc thận âm hư sẽ ảnh hưởng đến các dịch chất trong cơ thể trong đó có huyết…

Các chức nặng tạng phủ nói chung bị hư suy sẽ ảnh hưởng đến việc tạo mới các thành phần vật chất giúp cho hoạt động cơ thể bao gồm cả tinh, khí, huyết, thần và tân dịch…

Ăn uống không đầy đủ

Dinh dưỡng kém ảnh hưởng đến công năng hoạt động của tỳ, vị.

Vật chất cơ bản để tạo thành tinh, khí, huyết, thần, tân dịch … chủ yếu là từ thức ăn, nếu ăn uống thiếu thốn, nguồn cung cấp không đầy đủ, khí huyết không có nguồn sinh hóa, lâu ngày sinh huyết hư, hư lao..

Mất máu quá nhiềuBệnh biến từ ngoại cảm đến nội thương sinh hỏa, hỏa nhiệt vọng hành bức huyết làm chảy máu như trong khái huyết, thổ huyết, xỉ huyết, tiện huyết, v.v… Bị chấn thương đụng dập mất nhiều máu. Kinh nguyệt quá nhiều, hoặc rong kinh rong huyết lâu ngày.

Tiên thiên bất túc

Bẩm sinh tinh, khí, huyết.. không đầy đủ là do:

Khi thụ thai cha mẹ tuổi già, sức yếu, tinh huyết kém.

Khi thụ thai, người mẹ ăn uống thiếu thốn hoặc lao tâm, lao lực thái quá hoặc bị mắc các bệnh mạn tính.

Dinh dưỡng thai nhi kém hoặc không đúng cách.

Tiên thiên bất túc chủ yếu là do thận.

Thận tàng tinh, tinh tiên thiên góp phần thông qua thận khí hỗ trợ cho tỳ vận hóa thủy cốc thành tinh hậu thiên, tinh hậu thiên lại bổ sung làm mới hóa không ngừng tinh tiên thiên giúp cho hoạt động của thận. Khi thận khí suy yếu ảnh hưởng dây chuyền đến việc sinh huyết. Ngoài ra thận lại là chủ phần âm của cơ thể, chủ về huyết dịch nên khi thận hư tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến huyết.

Tiên thiên bất túc, hậu thiên thất dưỡng đều dẫn đến thận hư, thận hư tất sẽ dẫn đến huyết hư.

Các nguyên nhân khác

Lao nhọc quá độ lại kèm thêm ăn uống thiếu thốn làm tổn thương cả khí lẫn huyết.

Lao tâm quá làm tổn thương âm huyết.

Sinh đẻ nhiều hao khí tổn huyết hoặc phòng dục quá độ cũng dẫn đến khí hư huyết suy.

Trùng tích: bệnh giun sán tích tụ, thường là ở bụng, lâu ngày cũng dẫn đến tổn thương tỳ vị gây nôn nao, bụng lúc đau lúc không, sắc mặt úa vàng, môi lưỡi nhợt nhạt.

Biểu hiện lâm sàng của thiếu máu theo y học cổ truyền

Huyết là một trong năm dạng vật chất giúp cơ thể hoạt động và nuôi dưỡng các khí quan, nếu huyết hư sẽ xuất hiện các triệu chứng có thể quy vào 2 nhóm như:

Tạng phủ thất dưỡng

Tạng phủ thất dưỡng thường biểu hiện ra sắc mặt, môi, móng tay chân nhợt nhạt, kém tươi, chóng mặt, xây xẩm, tay chân tê mỏi, hồi hộp, mất ngủ, da tóc khô, đại tiện táo kết.

Tâm chủ huyết, can tàng huyết nên khi có huyết hư biểu hiện lâm sàng chủ yếu là hai tạng tâm và can: tâm huyết bất túc có biểu hiện hay hồi hộp, mất ngủ, hay mộng mị, thần chí bất an; can huyết bất túc thì sắc mặt tái nhợt, chóng mặt, ù tai, hai mắt khô, nhìn vật không rõ hoặc quáng gà, tay chân tê mỏi, móng tay chân khô dễ gãy.

Trong mối quan hệ giữa các công năng sinh huyết, tạo huyết và hoạt động của huyết lồng trong mối quan hệ của ngũ hành tương sinh – tương khắc, các biểu hiện lâm sàng có thể có thêm các triệu chứng do rối loạn dây chuyền các chức năng thận, phế, tỳ…

Huyết hư khí trệ

Trong việc tạo ra huyết phải nhờ có khí, khi huyết dịch đã được tạo ra khí nương tựa vào huyết mà vận hành chu lưu trong toàn thân. Nếu huyết hư khí không còn có chỗ nương nhờ nên cũng hư theo, do đó khi huyết hư thường kèm theo khí hư và trên lâm sàng không chỉ biểu hiện triệu chứng của huyết mà có cả triệu chứng của khí như: hụt hơi, thở ngắn, hay thở dài, tiếng nói yếu ớt, mệt mỏi, đổ mồ hôi….

CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán thiếu máu

Lâm sàng:phụ thuộc nhiều vào tình trạng thiếu máu và khả năng thích nghi của cơ thể

Da xanh, niêm mạc nhợt nhạt, rõ nhất là lòng bàn tay và niêm mạc dưới lưỡi.

Móng tay, đầu ngón tay khô đét.

Lông tóc khô, dễ gãy, dễ rụng.

Người mệt mỏi, tay chân yếu, tinh thần ủ rũ.

Sốt nhẹ có thể thấy trong thiếu máu nặng.

Khó thở khi gắng sức và có khi cả lúc nghỉ ngơi gặp trong thiếu máu nặng.

Tim đập nhanh, nhất là khi gắng sức, thiếu máu nhiều sẽ xuất hiện âm thổi tâm thu nghe được ở mỏm tim và ở van động mạch phổi.

Cận lâm sàng

Kiểm tra máu thông thường

Làm huyết đồ: gồm tìm cả lượng hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu

Lượng hồng cầu: bình thường ở người lớn: nam: 4200000 ± 210000; nữ: 3800000 ± 160000

Định lượng huyết sắc tố: rất cần thiết để tính lượng huyết sắc tố trung bình của mỗi hồng cầu

Huyết sắc tố bình thường ở người lớn: nam 14,6 ± 0,60; nữ 13,2 ± 0,55g/dl.

Định lượng hematocrit giúp kiểm tra số lượng hồng cầu, không thể có thiếu máu nếu hematocrit cao hoặc bình thường.

Hematocrit bình thường ở nam 43%, ở nữ 39% .

Đo chỉ số hồng cầu

MCV (thể tích trung bình của hồng cầu): bình thường 85 – 95fl, đo chỉ số này để xác định loại hồng cầu to, nhỏ hay trung bình.

MCH (lượng huyết sắc tố trung bình của hồng cầu): bình thường ở nam 34, 6pg và ở nữ 35pg (2,18 – 2,2fmol).

MCHC (mean corpuscular hemoglobin cocentration – nồng độ huyết sắc tố trung bình) bình thường 32 – 38g/dl để xác định là ưu sắc, đẳng sắc hay nhược sắc.

Kiểm tra chỉ số hồng cầu lưới

Hồng cầu lưới là những hồng cầu non mới được ra máu, sau 24 – 48 giờ, hồng cầu này mất lưới và trở thành hồng cầu thường, do đó trên phiến đồ những hồng cầu lưới chứng tỏ nó mới trong tuỷ ra trong vòng 48 giờ.

Bình thường hồng cầu lưới trong máu có tỷ lệ 0,7 ± 0,21% ở nam và 0,9 ± 0,25% ở nữ so với hồng cầu nói chung. Trên 1% là tuỷ đang tăng sinh hoặc đang phục hồi hồng cầu, thấp hơn 0,5% là dòng hồng cầu không sinh sản được.

Hồng cầu lưới tăng nhiều trong các trạng thái thiếu máu nặng nhưng tiên lượng đang tốt, máu đang được hồi phục, các cơ quan tạo máu còn đủ khả năng.

Cơ sở lý luận bước đầu để chẩn đoán thiếu máu

Đặc điểm huyết đồ

Dự đoán bệnh sinh

Thông tin cần

Thiếu máu bình sắc, kích thước HC bình thường hoặc to, hồi phục được

Hồng cầu bị phá hủy quá nhiều

Tìm triệu chứng tan máu, tìm nguyên nhân mất máu cấp

Thiếu máu bình sắc, kích thước HC bình thường hoặc to, không hồi phục được

Giảm sinh hoặc loạn sinh hồng cầu không phải do tổng hợp huyết cầu tố

Tìm hiểu lâm sàng của viêm, suy thận, suy giáp, tủy đồ, tình trạng các dòng tế bào khác

Thiếu máu nhược sắc, có hoặc không có kèm theo kích thước hồng cầu nhỏ, không hồi phục

Loạn sinh hồng cầu do tổng hợp huyết cầu tố không tốt

Định lượng sắt huyết thanh và siderophilin toàn phần trong máu

Thiếu máu nhược sắc, có hoặc không có kèm theo kích thước hồng cầu nhỏ, hồi phục được

Kết hợp mất máu gần đây khá nhiều và thiếu sắt. Thiếu máu tan máu có rối loạn tổng hợp huyết cầu tố

Mất sắt do tan máu mạn tính trong huyết quản

Mất sắt đang được điều trị

Tìm dấu hiệu của tan máu

Tìm dấu hiệu của mất máu

Định lượng sắt huyết thanh và siderophilin toàn phần

Thiếu máu nhược sắc, kích thước hồng cầu to, không hồi phục được

Kết hợp rối loạn tổng hợp huyết cầu tố và một nguyên nhân khác làm rối loạn sinh sản hồng cầu

Địnhlượng sắt huyết thanh và siderophilin toàn phần, tủy đồ

Chẩn đoán thiếu máu thiếu sắt

Ngoài những biểu hiện nêu trên, đặc điểm thiếu máu thiếu sắt có:

Khởi phát âm thầm bằng mệt và xanh xao tăng dần.

Mệt mỏi, ít hoạt động, chóng mặt, ù tai.

Khó thở khi gắng sức.

Móng tay chân nhợt nhạt, bẹt hoặc lõm, có khía, dễ gãy.

Lưỡi bị viêm, mất gai lưỡi.

Thường có những rối loạn về tiêu hóa khi thiếu máu kéo dài như khó nuốt, viêm dạ dày, teo niêm mạc và giảm độ toan dịch vị.

Trẻ em khi thiếu sắt thường chậm phát triển cơ thể, gày.

Đặc điểm của thiếu máu thiếu sắt là hồng cầu nhỏ, nồng độ huyết sắc tố hồng cầu giảm < 30g/dl, huyết sắc tố trung bình < 28 picogram và thể tích hồng cầu giản < 80 femtolit.

Sắt huyết thanh giảm < 500àg/l, không có hemosiderin trong tủy xương.

Định lượng ferritin có giá trị phản ảnh đúng tình trạng dự trữ sắt của cơ thể, khi thiếu sắt lượng feritin huyết thanh giảm < 12àg/l.

Chẩn đoán phân biệt các loại thiếu máu nhược sắc

Các thiếu máu giảm sắc hồng cầu nhỏ khác như trong bệnh thiếu máu vùng biển là bệnh bẩm sinh bởi tình trạng rối loạn trong tổng hợp các chuỗi đa peptid của hemoglobin mà biểu hiện lâm sàng rất hay thay đổi và đi từ những thể không có biểu hiện đến các thể nặng với thiếu máu lách to và rối loạn về phát triển (hộp sọ hình tháp, vẻ mặt hội chứng Down); cận lâm sàng có các hồng cầu nhỏ hơn số lượng bình thường, huyết cầu tố ít khi giảm dưới 9g/100ml, hemosiderin vẫn có mặt trong tủy xương, tỷ lệ sắt huyết thanh và khả năng toàn phần cố định sắt thì bình thường.

Thiếu máu phối hợp với một nhiễm khuẩn: thiếu máu giảm sắc nhẹ và kích thước bình thường, tỷ lệ sắt huyết thanh giảm, khả năng toàn phần cố định sắt giảm, hemosiderin trong tuỷ xương bình thường.

Thiếu máu nguyên bào sắt: các nguyên bào sắt là những hồng cầu chứa những hạt sắt không tạo huyết cầu tố. Trong những thiếu máu nguyên bào sắt việc sử dụng sắt để tổng hợp huyết cầu tố bị rối loạn, do đó thiếu máu ít nhiều giảm sắc rõ và trong máu ngoại vi có một số hồng cầu nhỏ cũng tồn tại với hồng cầu bình thường, tăng sinh tủy dòng hồng cầu tương đối rõ, nhưng số lượng hồng cầu lưới trong máu ngoại vi không tăng, tỷ lệ sắt huyết thanh bình thường hay tăng nhẹ.

Các bệnh về huyết cầu tố: chẩn đoán bằng điện di huyết cầu tố.

Chẩn đoán theo y học cổ truyền

Dựa theo các biểu hiện lâm sàng hoặc rối loạn chức năng tạng phủ hoặc huyết hư khí trệ , Đông Y phân thành các thể bệnh lâm sàng sau:

Tâm huyết hư

Hồi hộp hay quên, tâm phiền lo lắng bất an.

Mất ngủ, giấc ngủ không sâu, hay mộng mị nói mê.

Chóng mặt, hoa mắt.

Sắc mặt không tươi, môi lưỡi nhợt nhạt.

Mạch tế sác.

Can huyết hư

Sắc da khô sạm, xanh nhạt hoặc vàng bủng, nặng thì da tróc vẩy nhăn nheo.

Móng tay chân nhợt nhạt, khô, dễ gãy.

Miệng môi và chất lưỡi trắng, nhợt nhạt.

Thể trạng gầy còm, tay chân tê dại hoặc gân mạch co rút.

Đau tức hông sườn.

Hai mắt khô rít, quáng gà hoặc nhìn vật lờ mờ, hoa mắt ù tai.

Mất ngủ, hay mê, dễ sợ hãi.

Phụ nữ hành kinh ít, nhạt màu hoặc hành kinh muộn, bế kinh, sau khi hành kinh đau bụng, thiếu sữa hoặc không thụ thai.

Mạch huyền tế.

Tâm tỳ hư

Tuỳ thuộc vào giai đoạn bệnh mà có các triệu chứng lâm sàng phù hợp như: do ưu tư quá độ làm tâm huyết ngấm ngầm bị hư hoặc sau khi bệnh nặng kéo dài, chăm sóc không tốt làm ảnh hưởng đến tỳ làm cho sự hóa sinh khí huyết bị giảm sút, tâm huyết hư làm tâm khí hư có thể ảnh hưởng đến cả tỳ dương …. Tuy nhiên khi cả tâm tỳ đều hư sẽ xuất hiện:

Hồi hộp, hay quên, hoa mắt, chóng mặt.

Kém ăn, mỏi mệt.

Mất ngủ.

Sắc mặt úa vàng, lưỡi nhợt nhạt.

Có thể có kinh nguyệt không đều ở nữ hoặc xuất huyết dưới da.

Mạch nhược.

Tỳ thận dương hư

Thân thể ớn lạnh, tay chân lạnh.

Kém ăn, trướng bụng.

Tiêu phân nhão hoặc tiêu chảy kéo dài, hoặc đi tiêu ra nguyên thức ăn, hoặc ngũ canh tả.

Tiểu tiện không thông lợi.

Toàn thân phù thũng.

Lưng gối mỏi lạnh.

Đàn ông có rối loạn cường dương hoặc di tinh.

Phụ nữ không thụ thai.

Chất lưỡi bệu, nhợt, rêu lưỡi trắng trơn.

Mạch trầm trì, tế nhược.

Khí huyết đều hư

Sắc da xanh xao nhợt nhạt.

Hồi hộp, hoa mắt, chóng mặt.

Mệt mỏi yếu sức, thiếu hơi, biếng nói.

Mất ngủ.

Tự ra mồ hôi.

Lưỡi nhợt bệu.

Mạch tế nhược.

ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc

Theo y học hiện đại

Những điều cần chú ý trước khi quyết định điều trị

Không có một phương pháp điều trị chung cho các loại thiếu máu: Mỗi loại thiếu máu có một cách điều trị khác nhau. Không nên bắt đầu điều trị thiếu máu chỉ dựa vào số lượng hồng cầu.

Không điều trị thiếu máu khi chưa có chẩn đoán xác định và chưa rõ nguyên nhân: Thiếu máu không là một bệnh mà là triệu chứng của nhiều loại bệnh, trong nhiều trường hợp tính nghiêm trọng của thiếu máu là nằm ở nguyên nhân gây nên thiếu máu, thí dụ cũng là thiếu máu thiếu sắt nhưng nếu do dinh dưỡng thì dù có thiếu mức độ nặng qua điều trị bổ sung sắt cũng có hiệu quả tốt; ngược lại nếu do ung thư dạ dày gây xuất huyết mạn tính cũng thiếu sắt mức độ nhẹ điều trị bổ sung sắt tuy bệnh có giảm nhưng che mất các dấu hiệu không phát hiện ung thư kịp thời dẫn tới hậu quả nghiêm trọng. Điều trị thiếu máu không phải là trường hợp cấp cứu (ngoại trừ mất máu cấp do chấn thương). Cần làm các xét nghiệm để chẩn đoán xác định, và chẩn đoán nguyên nhân. Thận trọng trong các chỉ định truyền máu, sắt, hoặc vitamin B12… sẽ gây khó khăn trong việc tìm nguyên nhân. Không nên vội cho thuốc bổ và thuốc chống thiếu máu.

Nguyên tắc điều trị

Nhằm vào những nguyên nhân trực tiếp gây thiếu máu.

Biện pháp phòng chống thiếu máu: Cần tích cực chống ô nhiễm môi trường, làm vệ sinh môi trường ở nông thôn để giảm nhiễm ký sinh trùng đường ruột, kiểm soát chặt chẽ thuốc trừ sâu. Triển khai các kế hoạch chăm sóc sức khỏe ban đầu ở cơ sở. Giáo dục về dinh dưỡng hợp lý. Điều trị sớm các bệnh mạn tính đường tiêu hóa, các bệnh giun sán. Phát hiện sớm các tật di truyền. Tránh dùng thuốc điều trị bệnh một cách tràn lan bao vây.

Nguyên tắc điều trị theo y học cổ truyền

Kiện tỳ hòa vị

Tỳ vị là nguồn sinh hóa của huyết dịch, ăn uống có điều độ, công năng vận hóa của tỳ vị bình thường thì khí huyết thịnh, do đó bổ huyết trước hết cần phải kiện vận tỳ vị. Các bài thuốc thường dùng bao gồm: Tứ quân tử thang, Tứ vật thang, Đương quy dưỡng huyết thang.

Ích khí, sinh huyết

Khí là nguồn động lực thúc đẩy tinh hóa thành huyết, theo các tư liệu kinh điển “huyết và khí đều quan trọng nhưng phải bổ khí trước bổ huyết, âm dương đều là cơ bản và cần yếu nhưng nên dưỡng dương trước tư âm”. Trên thực tế dùng thuốc thường theo nguyên tắc “khí năng sinh huyết” dùng thuốc bổ huyết gia thêm thuốc ích khí, những phương thuốc thường dùng như quy tỳ thang, đương quy bổ huyết thang. Thuốc bổ khí thường dùng gồm hoàng kỳ, nhân sâm, đảng sâm, bạch truật, hoàng tinh, sơn dược, đại táo phối hợp thuốc dưỡng huyết như đương quy, bạch thược, a giao, thục địa.

Bổ thận, sinh huyết

Thận là nguồn gốc của tiên thiên, chủ tàng tinh, tinh sinh tủy, tủy hóa huyết. Ngoài ra mệnh môn là nơi tụ hội của nguyên khí, là gốc của 12 kinh, là nguồn của sinh hóa, cũng là động lực thúc đẩy sinh huyết. Khi điều trị chứng huyết hư cần kết hợp bổ thận để sinh tinh ích tuỷ. Các phương thuốc thường dùng gồm: thỏ ty tử, nhân sâm, nhị tiên đơn…. Các vị thuốc bổ thận thường dùng gồm có: lộc nhung, lộc giác giao, quy bản, ba kích thiên, tỏa dương, dâm dương hoắc, thỏ ty tử, nhục quế, thục địa, câu kỷ tử, tử hà sa…

Tán ứ sinh huyết

Huyết dịch vận hành chu lưu toàn thân giúp nuôi dưỡng, nếu vì lý do nào đó sự vận hành này bị tắc nghẽn sẽ sinh ra ứ trệ, khí huyết ngưng trệ ảnh hưởng đến tất cả tạng phủ kể cả cơ quan tạo huyết mà sinh chứng huyết hư. Trong trường hợp này việc điều trị sẽ là tán ứ sinh huyết, các bài thuốc thường dùng gồm: Đào hồng tứ vật thang, Bổ dương hoàng ngũ thang, Huyết phủ trục ứ thang. Các vị thuốc trục ứ thường dùng như đương quy, xuyên khung, đan sâm, tam thất, đơn bì, hương phụ.

Giải độc sinh huyết

Các bệnh do nội thương hay do ngoại cảm lục dâm, bệnh lâu ngày tích nhiệt hóa hỏa, rất dễ làm hao tổn phần âm đưa đến huyết hư. Trong trường hợp này việc điều trị cần phải thanh nhiệt giải độc, các phương thuốc thường dùng bao gồm: Tê giác địa hoàng thang, Tam hoàng thạch cao thang, Nhân trần cao thang, Ngũ vị tiêu độc ẩm, Thanh vinh thang …

Điều trị cụ thể

Điều trị chung khi có thiếu máu

Những bài thuốc hoặc món ăn dùng trong thiếu máu nói chung

Nhân sâm 10g, đại táo 10 quả sắc lấy nước uống: trị thiếu máu do mất máu.

Thục địa 12g, đương quy 10g, bạch thược 10g, xuyên khung 6g, sắc uống.

Tang thầm 50g, câu kỷ tử 20g, sắc nước uống.

Sinh địa 30g, mạch môn 12g, câu kỷ tử 12g sắc lấy nước rồi đem nấu với huyết gà hoặc vịt thành canh, nêm gia vị ăn dùng trong thiếu máu do thiếu sắt hoặc người thể trạng âm hư.

Xương cổ dê 1-2 đoạn đập giập, đại táo 20 trái (bỏ hạt), gạo nếp 50 – 100g nấu thành cháo ăn.

Long nhãn 5g, hạt sen 10g, nếp 100g nấu cháo ăn.

Móng heo 2 bộ, đậu phộng 50g, đại táo 10 trái cùng nấu chín ăn trong trường hợp thiếu máu có cả giảm bạch cầu và tiểu cầu.

Gà ác 1 con, đông trùng hạ thảo 10g cùng hầm chín để ăn.

Bệnh lý viêm nhiễm miễn dịch mạn tính gây thiếu máu

Viêm gan mạn gây thiếu máu: bài thuốc Nhân trần cao thang gia giảm (gồm: nhân trần 20g, nhân sâm 10g, thục địa 30g, bạch thược 10g, đương quy 10g, chi tử 15g, đại hoàng 10g, cam thảo 5g).

Vị thuốc

Tác dụng

Vai trò

Nhân trần

Thanh lợi thấp nhiệt, thoái hoàng

Quân

Nhân sâm

Đại bổ nguyên khí, ích huyết, sinh tân

Quân

Thục địa

Tư âm, bổ thận, bổ huyết, sinh tân

Quân

Bạch thược

Tư âm, dưỡng huyết, liễm hãn, chỉ huyết

Thần

Đương quy

Bổ huyết, dưỡng huyết

Thần

Chi tử

Thông lợi tam tiêu, lợi thủy

Đại hoàng

Tả nhiệt trục ứ, thông lợi đại tiện

Cam thảo

Bổ trung, hoà vị

Sứ

Nhiễm trùng nhiễm độc mạn tính hoặc các bệnh lý viêm nhiễm do miễn dịch gây thiếu máu: dùng bài Thanh dinh thang gia giảm (tê giác 5g, sinh địa 20g, bạch thược 10g, đương quy 10g, huyền sâm 8g, mạch môn 8g, đan sâm 5g, ngân hoa 10g, liên kiều 10g, hoàng liên 8g, liên tử 10g, đại táo 3 trái).

Vị thuốc

Tác dụng

Vai trò

Tê giác

Thanh tâm hỏa, lương huyết, giải độc

Quân

Sinh địa

Tư âm, thanh nhiệt, bổ huyết

Quân

Đại táo

Kiện tỳ, bổ huyết

Thần, Sứ

Đương quy

Bổ huyết, dưỡng huyết

Thần

Bạch thược

Bổ huyết, liễm hãn

Thần

Mạch môn

Tư âm, thanh nhiệt, bổ phế

Huyền sâm

Thanh nhiệt lương huyết, sinh tân dịch

Đan sâm

Hoạt huyết, khử ứ

Ngân hoa

Thanh nhiệt, giải độc

Liên kiều

Thanh nhiệt, giải độc, tán kết

Hoàng liên

Thanh nhiệt, giải độc, thanh tâm

Liên tử

Thanh tâm bổ tỳ

Thể khí huyết hư

Thường gặp trong hội chứng suy nhược mạn, các bệnh mạn tính kéo dài.

Pháp trị: bổ khí huyết.

Bài thuốc thường dùng: Bát trân thang.

Vị thuốc

Tác dụng

Vai trò

Nhân sâm

Bổ tâm khí, đại bổ nguyên khí, ích huyết, sinh tân

Quân

Thục địa

Bổ thận, dưỡng âm, bổ huyết

Quân

Hoàng kỳ

Bổ khí, thăng dương khí của tỳ, chỉ hãn, lợi thủy

Thần

Bạch truật

Kiện tỳ táo thấp, cầm mồ hôi

Thần

Đương quy

Bổ huyết, hành huyết

Thần

Bạch thược

Bổ huyết, cầm mồ hôi, giảm đau

Thần

Phục linh

Kiện tỳ, thẩm thấp, lợi thuỷ, an thần

Xuyên khung

Hành khí hoạt huyết, khu phong, chỉ thống

Đại táo

Kiện tỳ, bổ huyết

Cam thảo

Bổ tỳ thổ, bổ trung khí, hoà vị

Sứ

Phương huyệt:

Tên huyệt

Cơ sở lý luận

Tác dụng

Đản trung

Mộ huyệt của tâm bào

Bổ tâm khí

Quan nguyên

Hội của 3 kinh túc tam âm

Bổ nguyên khí

Khí hải

Bể của khí

Bổ khí

Thần môn

Nguyên huyệt của tâm

Bổ tâm

Cách du

Hội huyệt của huyết

Điều khí, bổ huyết

Cao hoang

Huyệt của bàng quang, chỗ ở của thần minh

Bổ huyết, gìn giữ huyết cho dương

Túc tam lý

Hợp huyệt của vị

Điều trung khí

Tam âm giao

Giao hội của 3 kinh âm ở chân

Tư âm

Thể tâm huyết hư

Pháp trị: tư âm, dưỡng huyết.

Bài thuốc thường dùng: Quy tỳ thang gồm nhân sâm 8g, bạch truật 16g, hoàng kỳ 16g, đương quy 12g, long nhãn 16g, toan táo nhân 12g, phục thần 12g, viễn chí 8g, mộc hương 8g, cam thảo 8g

Vị thuốc

Tác dụng

Vai trò

Phục thần

Tiết tâm nhiệt, bình ổn tâm thần

Quân

Toan táo nhân

Ngọt, chua, bình: dưỡng tâm, an thần, sinh tân dịch

Quân

Long Nhãn

Bổ huyết, kiện tỳ

Quân

Nhân sâm

Ngọt, hơi đắng: bổ tâm khí, đại bổ nguyên khí, ích huyết sinh tân

Thần

Hoàng kỳ

Ngọt, ấm: bổ tâm khí, thăng dương khí của tỳ

Thần

Bạch truật

Ngọt, đắng, hơi ấm: kiện tỳ, táo thấp, cầm mồ hôi

Thần

Đương quy

Ngọt, cay, ấm: bổ huyết, hành huyết

Viễn chí

Đắng, ấm: bổ tâm thận, an thần

Mộc hương

Hành khí, chỉ thống, kiện tỳ

Cam thảo

Ngọt, ấm: bổ tỳ thổ, bổ trung khí

Sứ

Nếu tình trạng huyết hư dẫn đến âm hư, tâm âm hư dẫn đến thận âm hư, có thể dùng bài thuốc Hậu thiên lục vị phương (gồm: thục địa 20g, đương quy 12g, nhân sâm 8g, đan sâm 6g, viễn chí 6g, táo nhân 6g).

Vị thuốc

Tác dụng

Vai trò

Thục địa

Bổ thận, dưỡng huyết, bổ âm

Quân

Đương quy

Bổ huyết, hoạt huyết, dưỡng huyết

Thần

Nhân sâm

Đại bổ nguyên khí, ích huyết, sinh tân

Đan sâm

Hoạt huyết, khử ứ

Táo nhân

Dưỡng tâm an thần, sinh tân dịch

Viễn chí

Bổ tâm thận, an thần

Phương huyệt:

Tên huyệt

Cơ sở lý luận

Tác dụng điều trị

Tâm du

Bối du huyệt của tâm

Dưỡng tâm an thần

Quyết âm du

Du huyệt của tâm bào

Bổ tâm

Tam âm giao

Hội huyệt của 3 kinh âm

Tư âm, thanh nhiệt

Nội quan

Lạc huyệt của tâm bào

Định tâm

Thần môn

Nguyên thổ huyệt kinh tâm

Định tâm, an thần

Cách du

Hội huyệt của huyết

Bổ huyết

Huyết hải

Bể của huyết

Bổ huyết

Thể can huyết hư

Pháp trị: bổ can huyết.

Bài thuốc thường dùng: Bổ can thang hoặc Tứ vật thang Bài tứ vật thang: thục địa 30g, đương quy 15g, bạch thược 20g, xuyên khung 12g

Vị thuốc

Tác dụng

Vai trò

Thục địa

Ngọt, hơi ôn: bổ thận, dưỡng âm, bổ huyết

Quân

Đương quy

Dưỡng can huyết

Thần

Xuyên khung

Đắng, chát, chua: nhuận gan, dưỡng phế

Bạch thược

Cay, ôn: hoạt huyết, chỉ thống, hành khí, khu phong

Bài thuốc Lương địa thang gồm: a giao, bạch thược, thục địa (hay sinh địa), địa cốt bì, huyền sâm, mạch môn.

Vị thuốc

Tác dụng

Vai trò

Thục địa

Ngọt, đắng, ôn: sinh tân dịch, dưỡng âm, bổ huyết

Quân

Bạch thược

Đắng, chát, chua: nhuận gan, dưỡng phế

Quân

A giao

Ngọt, bình: tư âm, dưỡng huyết, bổ phế, nhuận táo

Thần

Địa cốt bì

Ngọt hàn: lương huyết, tả hỏa

Thần

Huyền sâm

Đắng, mặn, hơi hàn: tư âm, giáng hỏa, trừ phiền, nhuận táo

Mạch môn

Ngọt, đắng, mát: nhuận phế, sinh tân

Thể tâm tỳ hư

Pháp trị: bổ ích tâm tỳ.

Bài thuốc thường dùng: Quy tỳ thang hoặc Bát trân thang gia giảm.

Bài Bát trân thang: nhân sâm 12g, bạch truật 12g, phục linh 12g, cam thảo 6g, thục địa 12g, xuyên khung 12g, đương quy 12g, bạch thược 12g

Vị thuốc

Tác dụng

Vai trò

Nhân sâm

Bổ tâm khí, đại bổ nguyên khí, ích huyết, sinh tân

Quân

Thục địa

Bổ thận dưỡng âm, bổ huyết

Quân

Bạch truật

Kiện tỳ táo thấp, cầm mồ hôi

Thần

Đương quy

Bổ huyết, hành huyết

Thần

Bạch thược

Bổ huyết, cầm mồ hôi, giảm đau

Thần

Phục linh

Kiện tỳ, thẩm thấp, lợi thuỷ, an thần

Xuyên khung

Hành khí, hoạt huyết, khu phong, chỉ thống

Cam thảo

Bổ tỳ thổ, bổ trung khí, hoà vị

Sứ

Phương huyệt:

Tên huyệt

Cơ sở lý luận

Tác dụng điều trị

Đản trung

Mộ huyệt của tâm bào, hội của khí

Bổ tâm khí

Quan nguyên

Hội huyệt của 3 kinh túc tam âm

Bổ nguyên khí

Khí hải

Bể của khí

Bổ khí

Thần môn

Nguyên huyệt của tâm

Bổ tâm

Chi chính

Huyệt lạc của tiểu trường

Bổ tâm phế

Thái uyên

Nguyên huyệt của phế

Bổ phế

Thiên lịch

Huyệt lạc của đại trường

Bổ phế

Thể tỳ thận dương hư

Pháp trị: ôn bổ thận dương, trợ tỳ thổ.

Bài thuốc: Hữu quy ẩm gia giảm (gồm: thục địa 25g, hoài sơn 12g, sơn thù 12g, câu kỷ tử 12g, thỏ ty tử 12g, lộc giác giao 12g, nhục quế 6g, đương quy 10g, phụ tử chế 6g, nhân sâm 12g, chích cam thảo 6g).

Vị thuốc

Tác dụng

Vai trò

Phụ tử

Đại nhiệt, có độc, cay, ngọt: hồi dương cứu nghịch, bổ hỏa, trợ dương, trục phong hàn thấp tà

Quân

Quế

Cay, ngọt, đại nhiệt, hơi độc: bổ mệnh môn tướng hỏa

Quân

Thục địa

Ngọt, hơi ôn: nuôi thận dưỡng âm, bổ thận, bổ huyết

Quân

Hoài sơn

Ngọt bình: bổ tỳ vị, bổ phế thận, sinh tân chỉ khát

Quân

Sơn thù

Chua, sáp, hơi ôn: ôn bổ can thận, sáp tinh, chỉ hãn

Thần

Kỷ tử

Ngọt, bình: bổ can thận, nhuận phế táo, mạnh gân cốt

Thần

Nhân sâm

Đại bổ nguyên khí, ích huyết sinh tân

Thần

Đỗ trọng

Ngọt, ôn, hơi cay: bổ can thận, mạnh gân cốt

Thần

Sơn thù

Ôn bổ can thận, sáp tinh, chỉ hãn

Cam thảo

Ngọt, bình: bổ tỳ vị, nhuận phế thanh nhiệt giải độc, điều hòa vị thuốc

Sứ

Phương huyệt:

Tên huyệt

Cơ sở lý luận

Tác dụng điều trị

Thận du

Du huyệt của thận ở lưng

ích thủy, tráng hỏa kèm chữa chứng đau lưng

Tam âm giao

Giao hội huyệt của 3 kinh âm ở chân

Tư âm

Mệnh môn

Đặc hiệu dùng chữa chứng chân hỏa hư, bổ mệnh môn tướng hỏa

Bồi nguyên, bổ thận

Trung cực

Mộ huyệt của bàng quang

Giao hội của túc tâm âm và nhâm mạch

Lợi bàng quang, điều trị rối loạn tiểu tiện

Điều huyết thất bào cung, ôn

tinh: điều trị di tinh

Can du

Du huyệt của can ở lưng

Bổ can huyết

Thái xung

Du thổ huyệt của can

Thanh can hỏa, chữa chứng đầu choáng mắt hoa

Bài trướcCách thủ dâm nữ giới !
Bài tiếp theoLiệt dây thần kinh VII ngoại biên theo Đông y

BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.