CHÂM CỨU CHỮA TINH TRÙNG BẤT THƯỜNG
(1) Châm cứu:
Huyệt chính:
chia thành 2 nhóm. 1. Khí hải, Quan nguyên, Tam âm giao; 2. Thận du, Thứ liêu, Thái khê.
Các Huyệt thêm:
Trung cực, Túc tam lý, Chiếu hải và Mệnh môn.
(2) Châm pháp:
Một nhóm các huyệt chọn tại một trong hai nhóm Huyệt được sử dụng luân phiên. Tùy ý với các điểm bổ trợ. Châm tại huyệt dưới bụng, đâm thẳng hoặc kim hơi hướng xuống, chủ yếu thủ pháp đề – tháp châm, thăm dò nhiều lần để cảm giác huyệt được truyền xuống; huyệt phía sau vùng Bối du châm sâu khoảng 0,8 đến 1thốn cả bên phải và trái, niệm chuyển chủ yếu dung bổ pháp, dung mồi ngải gắn vào đốc kim dài 2 cm, cứu kim các huyệt trên.
Các huyệt: Tam âm giao và Thái khê, mũi kim hướng lên trên, dùng ngón tay cái bên phải ấn vào huyệt, sao cho cảm giác kim châm lên; Túc tam lý, Chiếu hải, châm thẳng niệm chuyển, bổ sung và giảm bớt. Lưu kim trong 15 đến 20 phút. Sau khi lấy kim, lần lượt các huyệt cứu khoảng 15 phút, với mức độ hồng đỏ cục bộ thì dừng lại. Mỗi ngày 1 lần hoặc cách ngày, 10 lần trong một đợt điều trị, nghỉ từ 5 đến 7 ngày giữa các đợt điều trị.
(3) Đánh giá hiệu quả
Tiêu chí đánh giá hiệu quả: phục hồi cơ bản: tổng số lượng tinh trùng> 0,7 tỷ / ml; tỷ lệ di động của tinh trùng> 60%, tinh trùng bất thường <15%; hiệu quả: tổng số và tỷ lệ di động của tinh trùng được cải thiện sau khi điều trị, và tinh trùng bất thường giảm; không hiệu quả: trước và Sau khi điều trị, Ba mục trên vẫn không thay đổi.
Tổng số 256 ca được điều trị, 155 ca (60,5%) khỏi cơ bản, 57 ca (22,3%) hiệu quả, 44 ca (17,2%) không hiệu quả, và tổng tỷ lệ có hiệu quả là 82,8%.