HUYỆT THIÊN TRỤ
天柱穴
B 10 Tiān zhù xué (Tienn Tchou).
Xuất xứ của huyệt Thiên Trụ:
«Linh khu – Bản du».
Tên gọi của huyệt Thiên Trụ:
– “Thiên” có nghĩa là trời, ở đây có nghĩa là đầu.
– “Trụ ” có nghĩa là cột chống đỡ của một ngôi nhà.
Huyệt ở bên cơ thang, cơ thang giống như môt cột trụ nâng đờ bờ sọ. Do đó, mà có tên là Thiên trụ (cột trời).
Có sách giải thích rằng: “Huyệt nằm ỏ chồ vị trí “Thiên ” ứng với tên gọi “Thiên trụ tinh ” nên gọi là Thiên trụ”.
Huyệt thứ:
10 Thuộc Bảng-quang kinh.
Mô tả của huyệt Thiên Trụ:
1. VỊ trí xưa:
Bờ ngoài gân lớn, nơi chỗ hõm giáp với chân tóc gáy (Giáp ất, Đồng nhân, Phát huy, Đại thành).
2. VỊ trí nay:
xác định huyệt Á môn, đo ra 1,3 thốn.
3. Giải phẫu, thần kinh Dưới của huyệt Thiên Trụ:
là bờ ngoài cơ thang, cơ bán gai của đầu, cơ thẳng sau nhỏ to của đầu, cơ chéo dưới của đầu – Thần kinh vận động cơ là nhánh dây sọ não XI, nhánh dây chẩm lớn và đám rói cổ. Da vùng huyệt chi phối bỏi tiết đoạn thần kinh C2.
Tác dụng trị bệnh của huyệt Thiên Trụ:
1. Tại chỗ, theo kinh:
2. Toàn thân:
Thần kinh suy nhược, It-tê-ri, viêm họng, thanh quản.
Lâm sảng của huyệt Thiên Trụ:
1. Kinh nghiệm tiền nhân:
Phối Thiếu thương trị ho mãn tính (Đại thành). Phối Dưỡng lão trị đau vai (Tư sinh). Phối Đào đạo, Côn lôn trị hoa mắt (Tư sinh).
1. Kinh nghiệm hiện nay:
Phối Thiếu thương trị viêm họng, thanh quản. Phối Lạc chẩm, Kiên- trung du, Liệt khuyết trị vẹo cổ. Phối Hậu khê, Huyền chung trị vẹo cổ. Phối Phong trì. Bách hội, Thái dương, Hợp cốc trị đau đầu, đau vai gáy.
Phương pháp châm cứu:
1. Châm Thẳng, sâu 0,5 – 1 thốn tại chỗ có cảm giác căng tức hoặc hướng lan ra ở đỉnh đầu.
2. Ôn cứu 3 – 5 phút. Sách xưa bảo cấm cứu.
* Chú ý Không được châm sâu và mũi kim hướng lên trên, dễ tổn thương tới hành tủy.
Tham khảo của huyệt Thiên Trụ:
1. «Linh khu – Hàn nhiệt bệnh» ghi rằng: “Co quắp động kinh nhanh chóng mạnh bạo, choáng váng làm cho chân không còn tuân theo thân mình nữa, nên thủ huyệt Thiên trụ”
2. «Linh khu – Quyết bệnh» ghi rằng: “Chứng quyết đầu thống, trước trên cổ gáy đau ứng với cột sống thắt lưng, trước hết thủ huyệt Thiên trụ, sau đó thủ huyệt ở kinh Túc Thái-dương“.
3. «Giáp ất» quyển thứ 10 ghi rằng: “Hoa mắt xoàng đầu, đau nặng đầu, mắt như muốn ra ngoài, gáy như muốn rồi, nổi cuồng thấy ma quỷ, mắt trợn ngược, cứng gáy không quay được, co giật dữ tợn choáng vàng làm chân không còn tuân theo thân mình nữa, đau như muốn gãy, chọn huyệt Thiên trụ làm chủ”.
4. «Thiên kim» ghi rằng: “Thiên trụ, Hành gian, chủ trị về chân như không còn tuân theo mình nữa”.
5. «Đại thành» quyển thứ 6 ghi rằng “Thiên trụ chủ về chân như không còn tuân theo minh nữa, vai lưng đau như muốn gãy. mắt mờ tối sầm, đầu xoay đau nhức trong não, đầu phong, mũi mất khứu giác không biết thơm thối, nặng trong đầu như muốn ra ngoài, đỉnh như muốn toát, cổ gáy không quay qua lại được”.
6. <<Bách chứng phú» ghi rằng: “Mắt lò mơ dùng Dưỡng lão, Thiên trụ, gáy cứng phần nhiều sợ gió, dùng Thúc cốt với Thiên trụ (Mục giác hoang hoang, cấp thủ Dưỡng lão Thiên trụ, Hạng cường đa ố phong, Thúc cốt tương liên ư Thiên trụ).
7. «Phôi huyệt khái luận giảng nghĩa»: Thường kết hợp Thiên trụ, Đại trử và Côn lôn, vì Thiên trụ là nơi phát ra mạch khí của Túc Thái dương Bàng quang kinh, châm vào sẽ có tác dụng khai khiếu tỉnh não. Đại trử là hội huyệt của Thủ Thái-dương và Túc Thái-dương.
Cốt hội ở Đại trử. cốt là do tủy nuôi dưỡng, tủy do não chảy xuống huyệt Đại trử rồi từ đây thấm nhập vào giữa cột sống, đi xuống dưới xuyên tới xương cùng rồi thấm vào các xương. Cho nên châm vào huyệt này sẽ bổ tủy và làm cho tỉnh táo lại đầu và mắt. Côn lôn là kinh huyệt của Tức Thái-dương Bàng quang kinh, châm vào đó đê xua đuổi phong và tán được hàn, có tác dụng thư cân hóa thấp.
Kinh Thái dương thống nhiếp toàn bộ dương khí của toàn thân. Các du huyệt của ngũ tạng lục phủ đều nằm ở vùng lưng, khí của ngũ tạng đều thông với thái dương. Cho nên châm vào ba huyệt này có tác dụng thông dương hóa thấp tán hàn, giáng nghịch khí xuống, khai khiếu tỉnh não, điều hòa âm dương.
Đông Viên ghi rằng cách này không dùng phép bổ và cũng như phép tả; bỏi lẽ khí cơ đang bị rối loạn xung ngược lên các khiếu ở đầu, nếu dùng phép bổ tả sẽ làm cho nghịch khí loạn thêm, đợi khi kinh khí điều hòa, thuận hành thì khí nghịch lên sẽ tự đi xuống, cần phải theo dõi cái thế của khí, không nên vội vàng. Ngoài ra phép này cũng trị được các chứng do tà khí của phong hàn bám ở kinh Thái dương, các triệu chủng chính là cứng và đau nhức đầu cổ, sống lưng; nếu như nghịch khí vào sâu rồi không đi nữa có thể suy tính để tả.