HUYỆT THẠCH MÔN
石門穴
cv 5 Shímén xué (Ché Menn).
Xuất xứ của huyệt Thạch Môn:
«Giáp ất».
Tên gọi của huyệt Thạch Môn:
– “Thạch” có nghĩa là đá, nói đến sự cản trỏ hoặc cái không dùng gì được cũng gọi là Thạch, như con gái không đủ bộ phận để sinh đẻ gọi là Thạch nữ.
– “Môn” có nghĩa là cổng, cửa.
Thạch môn là mộ huyệt của Tam-tiêu, trong các tác phẩm cổ về y học cổ truyền, người ta cho rằng nếu châm cứu sơ suất ở huyệt này có thể gây ra sự cằn cổi như cửa sinh sản bị làm nghẽn tắc, do đó mà có tên là Thạch môn.
Theo “Kinh huyệt thích nghĩa hội giải” ghi rằng: “Huyệt ở dưới rốn 2 thốn. Thạch có ý nghĩa là cứng rắn, huyệt chủ trị về đau cứng bụng dưới, y gia qua nhiều thế hệ đều cho rằng đây là nơi cấm cứu của phụ nữ, nếu phạm vào đó thì không có con. Cái gọi là phụ nữ không thông Nhâm đạo được gọi Thạch nữ còn ngụ ý này nữa. Huyệt là cửa ngõ ra vào của Nhâm mạch nên gọi Thạch môn”.
Tên Hán Việt khác của huyệt Thạch Môn:
Lợi cơ, Đơn điền, Mệnh môn, Tinh lộ.
Huyệt thứ:
5 Thuộc Nhâm mạch.
Đặc biệt của huyệt Thạch Môn:
“Mộ huyệt” của Tam-tiêu.
Mô tả của huyệt Thạch Môn:
1. VỊ trí xưa :
Dưới lỗ rón 2 thốn (Giáp ất, Đồng nhân, Phát huy, Đại thành).
2. Vị trí nay:
Huyệt ở trên điểm nối tỷ lệ 2/5 trên và 3/5 dưới của đoạn rốn và bờ trên xương mu.
3. Giải phẫu, thần kinh Dưới của huyệt Thạch Môn:
là đường trắng, mạc ngang, phúc mạc. Dưới nữa là ruột non (khi không bí tiểu hoặc không có thai). Dâ vùng huyệt chi phối bỏi tiết đoạn thần kinh TI 1.
Tác dụng trị bệnh của huyệt Thạch Môn:
1. Tại chỗ, Theo kinh :
2. Toàn thân :
Phù thũng, viêm tuyến vú, hạ huyết áp.
Lâm sàng của huyệt Thạch Môn:
1. Kinh nghiệm tiền nhân :
Phối Đại-trường du trị đại tiện không tự chủ (Đại thành). Phối Thương khâu trị đau cứng bụng dưới lan tới cơ quan sinh dục (Tư sinh).
2. Kinh nghiệm hiện nay:
Phối Hội âm, Dũng tuyền trị lạnh vùng cơ quan sinh dục. Phối Quan nguyên trị đau bụng sau khi sinh. Phối Quy lai trị sán khí. Phối cứu Quan nguyên, Khí hải trị tiêu khát.
Phương pháp châm cứu:
1. Châm Thẳng, sâu 1-1,5 thốn.
2. Cứu 7 lửa.
3. Ôn cứu 20 – 30 phút.
* Chú ý Không châm sâu quá.
Tham khảo của huyệt Thạch Môn:
1. «Giáp ất» ghi rằng: “Con gái cấm châm cứu, không may làm cho người ta không sinh đẻ được” (Nữ tử cấm thích cứu, bất hạnh sử nhân tuyệt tử).
2. «Giáp ất» quyển thứ 8 ghi rằng: “Dưới rốn thoát vị, đau quanh rốn, dùng Thạch môn làm chủ”.
3. «Thiên kim» ghi rằng: “Châm Thạch môn sâu 5 phân ở dưới rốn 2 thốn, cấm cứu sợ sẽ không bao giờ có thai. Đại tiện bí tắc, thở gấp tim đầy ngột, cứu Thạch môn 100 lửa. ỉa chảy không cầm, bụng dưới đau lâm râm, cứu Đơn điền 100 lửa”.
4. «Tâm thư» ghi rằng: “Phụ nữ ở giữa rốn và bụng dưới chảy nước mũi, ấy là do chân khí hư thoát, huyết của Xung Nhâm không lưu hành hóa thành nước mũi, hoặc từ giữa rốn, hoặc từ trong bộ sinh dục lai rai chảy xuống, nếu không trị kịp thì chết. Cứu Thạch môn 200 lửa, bên trong uống Khương Phụ thang thì đỡ. Sinh đẻ xuất huyết quá nhiều, hoặc xuất tinh sớm lúc giao hợp, hoặc lao động sớm làm tổn chân khí làm thành suy nhược mạch huyền mà khẩn, ho hen phát sốt, tứ chi quyết lãnh hoặc ho ra máu nôn ra máu, cứu Thạch môn 300 lửa”.
5. «Đồng nhân» ghi rằng: “Thạch môn, trị bụng căng đầy cứng tức. Phụ nữ sau sinh sản
dịch không dứt, lần lần kết thành khối, băng lậu rong kinh, có thể cứu 27 lửa tới 100 lửa là ngưng”.
6. «Tụ anh» ghi rằng: “Âm chứng tiểu tiện không thông, go bìu dái, đau bụng muốn chết, cứu “Thạch môn”.
7. Căn cứ vào “Giáp ất” ghi rằng huyệt này là “Mộ huyệt” của Tam-tiêu.
8. Thạch môn, theo “Giáp ất” còn gọi là Lợi cơ, Tinh lộ, Đơn điền, Mệnh môn.
9. Theo Bùi Định Phụ, Cung Chi Ngọc (Trung Quốc), quan sát 1052 lần châm vào huyệt Thạch môn thi thấy 905 lần có cảm giác đắc khí đi lên, đi xuống, hoặc vừa đi lên vừa đi xuống theo Nhâm mạch.
10. Thuật châm cứu tránh thai: «Present-day Chinese medicine journal», quyển 5, kỳ 7. Ghi rằng: “Tôi vốn biết môn châm cứu chữa được bệnh, ngày nay lại càng biết được rằng, châm cứu có thể bồi bô cơ thể, công hiệu của châm cứu có thể so như dùng thuốc bổ; quả thật chúng tôi đã được tăng thêm một số kiến thức về khoa này. Tuy nhiên, môn châm cứu đã có thể mãi mãi chấm dứt sự sinh dục của nam và nữ, thì đó là điều mà hoạn quan (thái giám) tự nói về sự từng trải của chính bản thân họ, nay xin đem ra kể lại như sau:
Năm dân quốc thứ 3, tôi tốt nghiệp Trưởng đại học luật pháp Bắc kinh, đã từng cùng với bạn học tới chơi ở nhà trưng bày triển lãm cổ cố cung, tại Ngọ Văn Huê điện, Võ Anh điện, Thái Hòa điện, thì ở Văn Huệ điện trình bày tranh, chữ viết, đồ thêu thùa của vua chúa qua các triều đại. Điện Võ Anh thì trình bày các châu báu, đá quý.
Bấy giờ còn có hàng trăm vị thái giám đã lớn tuổi làm công nhân coi sóc ở đó mà không chịu chuyển đổi nghề khác. Có lần, tôi cùng với 4 người bạn học ở Tứ Xuyên, Hồ Bắc tới chơi ở Di Hòa viên, có nơi rộng hơn 10 dặm, nếu không cho 5 xu tiền công để mấy ông thái giám hướng dẫn đi xem thì thực sự sẽ có cảm giác như lạc đường.
Khi tới nhà vệ sinh ở khu Vạn Thọ Sơn nghỉ chân, thì người bạn học nghịch ngợm ở Tứ Xuyên kia, đã đây xô té hai ông thái giám và tuột quần hai ông, để thử xem dịch hoàn của họ có bị thiếu đi hay không ? Không ngờ rằng hai hòn dái cứt của 2 ông ấy vẫn còn đủ mà không bị mất đi hòn nào cả, bởi thế chúng tôi kinh ngạc quá, mới hỏi thầm tại sao mà vẫn còn tồn tại được cả hai hòn dái là sao ?
Theo họ nói và cho biết rằng, phương pháp để đào tạo ra thái giám của các triều đại, ngoài bị làm bắt buộc phải ở trong phòng kín không cho ra ngoài. Họ được cấp đủ lương thực và nước uống đầy đủ cho người sẽ được trở thành thai giám và những người chăm sóc cho các thái giám tương lai này trong thời gian phẫu thuật. Rồi sau đó, do ông Thái y dùng dao thiến cắt bỏ hai hòn dịch hoàn, xong đắp thuốc lên nơi ấy cho gom miệng đê’ lành vết thương. Sau 100 ngày mới cho ra ngoài, nhưng thống kê kết quả thì cứ thiến hoạn 100 người thì 30 người trong số đó phải chầu trời !
Theo lịch sử ghi lại rằng: Thái sử Công Tư Mã Thiên – Nhà sử học nổi tiếng của Trung Quốc vì xin bổ nhiệm và tiến cử Lý Lăng mà bị xuống phòng giam, thiến đi. Mãi đến nhà Thanh, do ngự y Thái y viện đã phát minh mới về cách châm tạo thành thái giám. Người ngự y chỉ dùng ngải, cứu 3 huyệt ở dưới rốn, 1 huyệt ở đốt sống thắt lưng, 1 huyệt ở đầu, lại châm 2 huyệt dưới thắt lưng, tất cả chỉ tiến hành châm và cứu 3 lần, như thế sinh mạng chẳng những được an toàn mà lại khỏi phải bị giam trong phòng cả trăm ngày.
Sau khi tiến hành châm cứu, bèn thấy hạch Adam biến mất, tiếng nói thay đổi của “lại cái”, không còn râu ria, mất đi thể chất khỏe mạnh cứng cáp của giói mày râu, mất cả sự chung đụng về tình dục, mãi mãi giữ vững như thế. Cho nên đàn bà nếu như cơ thê yếu đuối, không muốn tiến hành thủ thuật cai đẻ, có thể nhà tới thầy châm cứu, tiến hành tránh thai, cũng không cần dùng thuốc ngừa thai gi cả. Đàn ông thực sự muốn trở thành “tứ đại giai không” thì cũng có thể làm như vậy.